Hàng chục công ty của Tư Bản Đỏ Phạm Nhật Vượng phá sản, đóng cửa ... nhưng v́ sao vẫn giàu?
Tại sao VinSpeed đề xuất làm đường sắt cao tốc Bắc Nam trong 5 năm? Đơn giản, v́ 5 năm có thể là tuổi thọ tối đa của Vinsped, giống như mọi công ty con của Vingroup, gồm hơn 20 công ty, tất cả đều tồn tại không quá 5 năm, có công ty chỉ tồn tại ít tháng, ngoại trừ cái máng lợn bất động sản Vinhomes.
1. VinCommerce (VinMart, VinMart+) và VinEco
Ngày 3/12/2019, Vingroup chuyển nhượng toàn bộ cổ phần tại VinCommerce và VinEco cho Tập đoàn Masan.
2. VinFa
Tháng 7/2024, Vingroup chuyển nhượng toàn bộ 48,78% cổ phần tại VinFa, công ty hoạt động trong lĩnh vực dược phẩm, chấm dứt sự hiện diện trong ngành bán lẻ dược phẩm.
3. Vincom Retail
Tháng 4/2024, Vingroup hoàn tất chuyển nhượng 55% vốn điều lệ tại Vincom Retail thông qua việc bán cổ phần tại các công ty SDI và Sado, khiến Vincom Retail không c̣n là công ty con của Vingroup.
4. VinBrain
Cuối năm 2024, Vingroup bán VinBrain, công ty chuyên về trí tuệ nhân tạo trong y tế, cho Tập đoàn NVIDIA của Hoa Kỳ.
5. Movian AI
Tháng 4/2025, Vingroup chuyển nhượng toàn bộ cổ phần tại Movian AI, công ty con của VinAI, cho Tập đoàn Qualcomm.
6. VinFashion
Thành lập năm 2014, VinFashion hoạt động trong lĩnh vực thời trang. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng một năm, Vingroup đă rút lui khỏi lĩnh vực này.
7. VinPro
Chuỗi bán lẻ điện máy VinPro bị giải thể vào năm 2019.
8. Adayroi
Sàn thương mại điện tử Adayroi bị đóng cửa vào cuối năm 2019, khi Vingroup quyết định rút lui khỏi lĩnh vực thương mại điện tử, nhường thị trường trăm triệu dân cho các công ty Trung Quốc. Một phần hệ thống và dữ liệu khách hàng được sáp nhập vào VinID – nền tảng khách hàng thân thiết của Vingroup.
9. VinDS, Vinlinks, VinExpress
Các công ty này từng hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ, nhưng đă bị giải thể hoặc ngừng hoạt động khi Vingroup tái cấu trúc để tập trung vào các lĩnh vực cốt lơi là xe điện và bất động sản.
10. VinID (nay là OneID)
Dù không bị bán hay giải thể, nhưng VinID đă tái cấu trúc và đổi tên thành OneID, hoạt động như ví điện tử và hệ sinh thái số.
11. Vinpearl Air
Thành lập năm 2019 trong lĩnh vực Hàng không.
T́nh trạng: Tự rút hồ sơ đăng kư kinh doanh vào tháng 1/2020, chưa kịp cất cánh do thị trường cạnh tranh và rủi ro cao.
12. Tập đoàn Tài chính Vincom (Vincom Financial Group)
Thành lập: Khoảng năm 2007–2008.
T́nh trạng: Đă giải thể sau khi Vingroup quyết định không tham gia sâu vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
13. Vsmart (điện thoại và tivi)
Lĩnh vực: Điện thoại thông minh, Tivi.
Thành lập: 2018 (qua công ty VinSmart).
T́nh trạng: Dừng sản xuất điện thoại và tivi vào tháng 5/2021.
VinSmart được sáp nhập vào VinAI và VinBigdata.
14. Xe ô tô xăng VinFast (Lux và Fadil)
Ngừng sản xuất toàn bộ ḍng ô tô xăng vào giữa năm 2022. Hiện nay, VinFast chỉ c̣n sản xuất xe điện, tập trung thị trường cắm cờ ngạo nghễ trên nóc xe tắc xi.
15. Công ty TNHH Việt Nam Grand Prix – Giải thể sau khi hủy tổ chức giải đua F1.
16. Vantix (CTCP Giải pháp và Dịch vụ Công nghệ) – Giải thể vào tháng 10/2023.
17. Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học VinBioCare
Thành lập ngày 3/6/2021. Vốn điều lệ 200 tỷ đồng. Tỷ lệ sở hữu: Vingroup nắm giữ 69% cổ phần.
VinBioCare được thành lập trong bối cảnh đại dịch COVID-19, với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam trong việc sản xuất vắc xin và các sản phẩm y tế liên quan. Tuy nhiên, sau giai đoạn cao điểm của đại dịch, thông tin về hoạt động của công ty này trở nên hạn chế. Hiện tại, công ty này lặn mất tăm, không sủi bọt.
Gần 20 công ty con của Vingroup bị giải thể hoặc bán cho công ty khác, hầu hết đều dùng một chiêu bài: Xin đất làm dự án lập công ty. Sau khi công ty hoạt động một thời gian ngắn th́ bán công ty hoặc sáp nhập với giá trị sở hữu chủ yếu là quyền sử dụng đất, thu hồi vốn để chuyển sang cho công ty VinFast Singapore làm xe điện.
Chu Hồng Quư
TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM VÀ KINH TẾ TƯ NHÂN: TỪ ĐẠI TƯỚNG CÔNG AN ĐẾN TƯ DUY THỊ TRƯỜNG
Chỉ hai ngày sau khi Nghị quyết 68/NQ-TW của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, VinSpeed được thành lập.
Ngay hôm thành lập 6/5, công ty đă gửi đề xuất đến chính phủ đề nghị đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam, công tŕnh trọng điểm quốc gia trị giá hơn 67 tỷ USD.
Để rồi khoảng hai tuần sau đó, Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ liên quan nghiên cứu đề xuất của công ty tư nhân này.
Nếu chỉ nh́n vào VinSpeed và cách hành xử của chính phủ với công ty này, dường như thái độ của chính quyền đối với công ty tư nhân đă thay đổi một cách rơ rệt.
Nhưng VinSpeed không đại diện cho tất cả các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.
V́ nếu là một công ty khác, họ sẽ phải xoay xở vật lộn trong một rừng các quy định, và mất rất nhiều thời gian.
Giới tư nhân trong nước đa số vẫn chịu nhiều thiệt tḥi trong cạnh tranh và chịu nhiều áp lực hơn từ thể chế.
Bức tranh kinh tế tư nhân, khác với VinSpeed, u ám hơn khi phải vật lộn với rất nhiều điều kiện kinh doanh và thường bị chính quyền thanh tra cũng như phải chi trả không ít chi phí ngầm.
Liệu Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân có thay đổi được bầu không khí này?
Bẫy nợ đường sắt cao tốc Bắc - Nam
Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam dự tính ngốn khoảng 61 tỷ USD không kể chi phí giải phóng mặt bằng. Theo phương án đề xuất VinSpeed sẽ huy động 20% vốn từ tư nhân; 80% c̣n lại - tương đương 49 tỷ USD - sẽ vay từ nhà nước trong 35 năm không tính lăi.
VinSpeed là công ty mới thành lập cách đây ít ngày, chưa hề có kinh nghiệm và công nghệ làm đường sắt với số vốn điều lệ 6000 tỷ đồng tương đương với 230 triệu USD. Như vậy vốn tự có của VinSpeed chỉ chiếm khoảng 0,4 % số vốn đầu tư của dự án. Quả là chiêu "mượn đầu heo nấu cháo" thần kỳ, anh Vượng xứng đáng được nhận giải thưởng VinFuture về kinh tế và công nghệ.
Trước t́nh h́nh nợ công hiện nay nhà nước sẽ phải huy động số tiền 49 tỷ USD bằng cách nào để cho VinSpeed vay? Nếu phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) 35 năm với lăi suất TB 3,28% như hiện nay th́ tiền lăi hàng năm phải trả là
49 tỷ USD × 3,28% = 1,61 tỷ USD.
Theo chuyên gia tài chính ChatGPT lăi suất kép (lũy tiến gộp) phải trả sau 35 năm sẽ tăng khoảng 3,27 so với giá trị ban đầu. Như vậy tổng số tiền nhà nước phải trả cho các chủ nợ theo lăi suất kép:
49 tỷ USD x 3,27 = 160,23 tỷ USD.
Giả sử sau 35 năm VinSpeed vẫn tồn tại và có khả năng hoàn trả số vốn 49 tỷ USD cho nhà nước như dự tính th́ số tiền ngân sách nhà nước c̣n nợ lại để bù lỗ cho VinSpeed trong suốt 35 năm sẽ là:
160,23 tỷ USD - 49 tỷ USD = 111,23 tỷ USD.
Đây là khoản nợ công khổng lồ mà Việt Nam sẽ phải gánh chịu cho việc xây tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam sau 35 năm theo đề xuất của VinSpeed. Ngoài ra c̣n các chi phí giải phóng mặt bằng khác cũng ko nhỏ. Chưa kể những chi phí phát sinh khác khiến thời gian triển khai dự án kéo dài và đội vốn. Lúc đó chẳng lẽ nhà nước từ chối ko chịu vay thêm tiền, tăng khoản nợ công để nuôi con bạc VinSpeed đang khát nước.
Nếu nhà nước không phát hành trái phiếu chính phủ mà vay nợ nước ngoài th́ lăi suất sẽ dao động từ 3-4% một năm (lăi suất vay của Tàu cộng cho dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông), cao hơn lăi suất trái phiếu chính phủ. Như vậy Việt Nam sẽ mắc bẫy nợ và chịu những điều kiện ràng buộc do chủ nợ nước ngoài đưa ra như phải chọn tổng thầu và nhập nguyên vật liệu máy móc của họ. Bài học nhăn tiền về tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông do Trung cộng xây với chất lượng kém, thiếu an toàn thời gian kéo dài, đội vốn vvv... vẫn c̣n đó.
Thay v́ đường sắt cao tốc Việt nam nên tập trung vốn để hoàn thành nhanh các tuyến Metro, đường sắt nội đô ở Sài G̣n, B́nh Dương và Hà Nội tốt hơn nhiều. Hai trung tâm kinh tế chính trị chiếm đến 1/5 dân số và 1/3 GDP của cả nước mà ko có nổi hệ thống giao thông công cộng hoàn chỉnh, suốt ngày tắc đường, khói bụi ồn ào, lăng phí bao thời gian, ảnh hưởng đến sức khỏe đời sống nhân dân và sự phát triển kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước phát triển và Trung quốc cho thấy họ đều xây dựng các tuyến metro ở các thành phố lớn và các tuyến đường sắt địa phương để giải quyết nạn ách tắc giao thông trước khi xây đường sắt cao tốc. Bắc Kinh đă có tuyến Metro đầu tiên từ năm 1964. Thượng Hải khánh thành tuyến Metro lần đầu vào năm 1993. Trong ṿng 20 năm thành phố này liên tiếp hoàn thành hàng chục tuyến Metro khác trước khi bắt tay xây dựng tuyến ĐSCT Thượng Hải - Bắc Kinh.
TQ lúc đầu cũng chỉ làm tuyến cao tốc ngắn Bắc Kinh - Thiên Tân dài 117 km với số vốn 3 tỷ USD dưới sự hỗ trợ về kỹ thuật, máy móc giao công nghệ của các tập đoàn hàng đầu của Nhật, Đức và Pháp. Sau đó Tàu mới dần nội địa hóa, làm chủ công nghệ và tự xây các tuyến đường sắt cao tốc khác.
Hiện nay ngoài tuyến đường sắt Bắc Nam chủ yếu xây từ thời Pháp các tỉnh và thành phố khác ở nước ta không có hệ thống các tuyến đường sắt liên tỉnh và nội tỉnh. Cần xây dựng hệ thống đường sắt liên tỉnh và nội tỉnh với tốc độ khoảng 200 kmh có thể chở người và hàng hóa để thúc đẩy giao thông và kinh tế địa phương, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Sau khi tích lũy kinh nghiệm xây dựng Metro và làm chủ công nghệ rồi chúng ta có thể tự lực phát triển đường sắt cao tốc vẫn chưa muộn.
Muốn chuyển giao công nghệ, lấy kinh nghiệm và nội địa hóa chúng ta có thể xây những tuyến đường sắt cao tốc ngắn như Hà nội - Hải Pḥng - Quảng Ninh hay Sài G̣n - Cần Thơ. Nếu vội vă giao cho nước lạ xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam mà ko tự chủ về công nghệ và trang thiết bị th́ ngoài bẫy nợ VN sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào TQ về kinh tế, an ninh quốc pḥng. Khi chất lượng và độ an toàn ko đảm bảo sẽ xảy ra những sự cố làm tắc nghẽn huyết mạch giao thông suốt dọc chiều dài đất nước. Hăy nh́n xe điện VinFast hay đường sắt CL - HĐ sẽ rơ.
V́ ngân sách có hạn chính phủ nên ưu tiên đầu tư vốn vào các lĩnh vực công nghệ cao và sản xuất. Hiện nay quá nhiều tiền đổ vào các dự án bất động sản tạo nên bong bóng với những đô thị ma đẩy giá đất lên cao trong khi các doanh nghiệp sản xuất và công nghệ rất khó tiếp cận vốn. Như vậy nhà nước sẽ không phải bù lỗ khoản tiền khổng lồ 111,23 tỷ USD cho VinSpeed mà c̣n thu lời ngân sách khi cho các doanh nghiệp vay trung và dài hạn với lăi suất 6%/năm. Ưu tiên đầu tư vốn vào sản xuất sẽ tạo công ăn việc làm, chính quyền thu được thuế và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Karlsruhe 24.05.2025
HT Lăng Tử
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới có tiêu đề “High-Speed Railways in China: A Look at Construction Costs”, được công bố vào ngày 10 tháng 7 năm 2014, chi phí xây dựng đường sắt cao tốc (ĐSCT) tại Trung Quốc (TQ) thấp hơn khoảng một phần ba so với các quốc gia khác [1]. Báo cáo chỉ ra rằng chi phí xây dựng trung b́nh của đường sắt cao tốc tại Trung Quốc dao động từ 17 đến 21 triệu USD/km, trong khi chi phí tại châu Âu thường từ 25 đến 39 triệu USD/km, và tại California (Mỹ) có thể lên đến 56 triệu USD/km [1, 2].
Lấy các tuyến đường sắt sau đây làm ví dụ cụ thể.
1.1. Tuyến Lan Châu – Tân Cương [3, 4]
• Tổng chiều dài: 1.776 km.
• Chi phí xây dựng: 143,5 tỷ nhân dân tệ (~20,6 tỷ USD).
• Chi phí mỗi km: ~81 triệu nhân dân tệ (~11,6 triệu USD).
• Tổng chiều dài: 1.776 km.
• Thời gian thi công: 4 năm (2009–2013).
• Đặc điểm:
+Tuyến này là tuyến đường sắt cao tốc cao nhất thế giới, có các đoạn đường đạt độ cao lên đến 3.607 m.
+ Tuyến có 226 đường hầm với tổng chiều dài 177 km (10%), trong đó có đường hầm Yangier dài 10 km.
+ Tuyến có 684 cây cầu và cầu cạn với tổng chiều dài 468 km (26,35%).
+ Rào chắn cát: Lắp đặt hàng rào chắn cát nhiều lớp và các rào chắn h́nh bàn cờ cao, giúp giảm tốc độ di chuyển của cát.
1.2. Tuyến Quư Dương – Quảng Châu [5]
• Tổng chiều dài: 856 km.
• Chi phí xây dựng: 85,8 tỷ nhân dân tệ (~12,5 tỷ USD).
• Chi phí mỗi km: ~100 triệu nhân dân tệ (~14,6 triệu USD).
• Thời gian thi công: 6 năm (2008–2014).
• Đặc điểm: Tuyến này đi qua địa h́nh núi non hiểm trở, với 270 hầm và 510 cầu, chiếm 83% chiều dài tuyến.
1.3. Tuyến Cáp Nhĩ Tân–Đại Liên [6]
• Tổng chiều dài: 904 km.
• Chi phí xây dựng: 95 tỷ nhân dân tệ (~13,5 tỷ USD).
• Chi phí mỗi km: ~105 triệu nhân dân tệ (~15 triệu USD).
• Tổng chiều dài: 904 km.
• Thời gian thi công: 5 năm (2007–2012).
• Đặc điểm: Đây là tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên hoạt động ở vùng khí hậu lạnh giá, với nhiệt độ mùa đông xuống dưới -30°C. Tuyến này có thiết kế đặc biệt để chống băng tuyết và được trang bị công nghệ chống đóng băng.
1.4. Tuyến Bắc Kinh – Thượng Hải [7]
• Tổng chiều dài: 1.318 km
• Tổng chi phí xây dựng: 220 tỷ nhân dân tệ (~31,6 tỷ USD)
• Chi phí xây dựng mỗi km: ~167 triệu nhân dân tệ (~23,4 triệu USD)
• Số km đường hầm: 16,1 km (chiếm khoảng 1,2% tổng chiều dài)
• Số km trên cầu: 1.060,6 km (chiếm khoảng 80,5% tổng chiều dài)
• Tổng thời gian thi công: 4 năm (2008–2012)
1.5. Tuyến Berlin–Munich [8]
Là một trong những dự án hạ tầng lớn và đắt đỏ tại Đức kể từ khi thống nhất.
• Chiều dài tuyến: Khoảng 623 km (tuyến qua Halle)
• Thời gian thi công: 25 năm (từ năm 1991 đến năm 2017).
• Chi phí xây dựng: Ước tính khoảng 10 tỷ euro (~11,8 tỷ USD).
• Chi phí mỗi km: Khoảng 19 triệu USD/km (thời giá kéo dài từ năm 1991, tính theo thời giá thay đổi có thể cao hơn)
• Đặc điểm kỹ thuật: Tuyến đi qua khu rừng Thüringer (Thuringian Forest), yêu cầu xây dựng 22 đường hầm và 29 cây cầu.
• Chiều dài tuyến: Khoảng 149 km từ Shin-Aomori (Honshu) đến Shin-Hakodate-Hokuto (Hokkaidō).
• Chi phí xây dựng:
o Tổng chi phí: Ước tính khoảng 467 tỷ yen (tương đương khoảng 4,67 tỷ USD vào thời điểm đó).
o Chi phí mỗi km: Khoảng 3,13 tỷ yen/km (tương đương khoảng 31 triệu USD/km).
• Thời gian thi công: Khoảng 11 năm, từ năm 2005 đến năm 2016.
1.7. Dự toán Tuyến HÀ NỘI – TP HCM
Theo như VinSpeed đă đề xuất [10,11]:
• Tổng mức đầu tư: 63,85 tỷ USD,
• Tổng chiều dài của tuyến: 1541 km
• Chi phí mỗi km: 41,43 triệu USD/km.
• Kết cấu tuyến: 60% cầu, 10% hầm, 30% nền đất.
Tổng hợp lại CHI PHÍ TRUNG B̀NH 1 KM:
• Tuyến Lan Châu – Tân Cương: ~11,6 triệu USD
• Tuyến Quư Dương – Quảng Châu: (~14,6 triệu USD
• Tuyến Cáp Nhĩ Tân – Đại Liên: ~15 triệu USD
• Tuyến Bắc Kinh – Thượng Hải: ~23,4 triệu USD
• Tuyến Berlin – Munich: ~19 triệu USD
• Tuyến Honshu – Hokkaidō: ~ 31 triệu USD
• Tuyến Hà Nội – TP.HCM: dự toán 41.43 triệu USD
So sánh với các tuyến Đường sắt cao tốc (ĐSCT) đă xây dựng của Trung Quốc, Đức và Nhật Bản th́ giá thành ĐSCT Hà Nội – TP.HCM rất đắt.
Có người sẽ viện dẫn tuyến ĐSCT Jakarta–Bandung thi công 2016 đưa vào vận hành 2023, có tổng chiều dài 142,3 km, tổng chi phí 7,3 tỷ USD (122.000 tỷ Rupiah Indonesia) với suất đầu tư 52 triệu USD/km để so sánh. Nhưng từ con số 52 triệu USD/km của tuyến Jakarta–Bandung cho ta hai nhận xét:
• Trung Quốc xây dựng ĐSCT cho nước ngoài khác với cho chính Trung Quốc.
• Sự lăng phí (không ngoại trừ tham nhũng) trong quản lư xây dựng ở Indonesia là rất lớn.
Giá thành cao của tuyến ĐSCT Jakarta–Bandung là bài học cảnh tỉnh cho Việt Nam, chứ không phải theo đó để ước lượng dự toán, và an ủi là chưa phải cao nhất.
Cuối cùng, là công dân Việt Nam, tiền Nhà nước Việt Nam bỏ ra để xây dựng ĐSCT cũng chính là tiền của bạn. Nếu bạn là chủ của dự án ĐSCT Hà Nội – TP.HCM, hăy tự trả lời:
– Bạn có chấp nhận con số khái toán trong nghiên cứu tiền khả thi là 61,35 tỷ USD và suất đầu tư 41.43 triệu USD/km không?
– Bạn có đồng ư đưa số tiền 61,35 tỷ USD cho một đối tác cam kết làm cho bạn, dù đối tác đó chưa làm ĐSCT bao giờ?
– Bạn có đồng ư đưa số tiền 61,35 tỷ USD mà không cần biết ḿnh sẽ có tuyến ĐSCT với công nghệ của nước nào? Do ai xây dựng? An toàn như thế nào? Chất lượng ra sao? Là của Đức, Nhật, Pháp, Trung Quốc hay là tổng hợp chắp vá của nhiều xuất xứ?
2. BÀI TOÁN VỀ GÓP VỐN VÀ CỔ PHẦN
Theo đề xuất của VinSpeed th́ tổng giá trị đầu tư của dự án là 63,95 tỷ USD [11] (chưa tính giá trị đất, giá trị dịch vụ thương mại).
VinSpeed tự thu xếp góp vốn 12,27 tỷ USD.
Nhà nước góp vốn bằng 49 tỷ USD tiền mặt, 17 tỷ USD tiền giá trị đất (TOD) và 2,68 tỷ USD tiền giải phóng mặt bằng (63,95 tỷ USD – (12,27 tỷ USD + 49 tỷ USD)).
Vậy đóng góp của Nhà nước là bao nhiêu? Đóng góp của VinSpeed là bao nhiêu?
Làm tṛn, Nhà nước đóng góp 84,84% và VinSpeed 15,16%.
C̣n nếu tính thêm 5 tỷ USD giá trị thương mại từ quảng cáo và dịch vụ như trong tính toán của Bộ GTVT [12] th́ cổ phần của Nhà nước sẽ c̣n lớn hơn và cổ phần của VinSpeed sẽ giảm đi.
3. THỜI GIAN HOÀN VỐN VÀ THỜI GIAN KHAI THÁC
VinSpeed đề xuất thời gian khai thác 99 năm.
Theo tính toán của Bộ GTVT, thời gian hoàn vốn là 33,61 năm [13].
VinSpeed đề xuất hoàn trả tiền vay sau 35 năm.
Vậy từ năm thứ 36 đến năm thứ 99 Nhà nước có được hưởng ǵ không?
Đă có đề xuất cho thuê đất 99 năm. Con số 99 năm một cách ngẫu nhiên nhắc đến sự kiện nhà Thanh buộc phải nhượng Hong Kong cho Anh quốc 99 năm.
Thời hạn khai thác các dự án BOT tối đa là 30 năm. Nghiên cứu tiền khả thi ước lượng thời gian hoàn vốn là 17 năm và 33,61 năm [12]. VinSpeed dự tính trả hết nợ cho Nhà nước sau 35 năm.
Giá thành ĐSCT của Trung Quốc là rẻ nhất, và thi công cũng nhanh nhất. So với giá thành dự toán ĐSCT Hà Nội – TP.HCM, giá của Trung Quốc chỉ ở khoảng 30% – 50%.
Giá thành ĐSCT của châu Âu và Nhật cũng chỉ dao động trong khoảng 20 – 30 triệu USD/km, chiếm 45%- 70% giá dự toán ĐSCT Hà Nội – TP.HCM.
Dù công nghệ Trung Quốc hay Nhật Bản hoặc châu Âu, th́ thời gian hoàn vốn của tuyến ĐSCT Hà Nội – TP.HCM sẽ được rút ngắn trông thấy, tương ứng với chi phí xây dựng.
Không thể nghĩ đến thời hạn 50 năm.
4. MỨC ĐỘ MẠO HIỂM
Trên thế giới đă có mô h́nh nào như thế này chưa?
Có Nhà nước nào chịu đứng vào vai tṛ như thế này không?
Dự án không thành công, ai sẽ trả tiền lại cho Nhà nước?
Có ngân hàng hay tổ chức nào có thể cho vay khối lượng tiền 49 tỷ USD với lăi suất 0% trong 35 năm mà không có thế chấp không?
Tiền của cá nhân bạn, bạn có cho vay như vậy không?
Nếu cá nhân không cho vay, bạn có khuyến khích người khác cho vay không?
5. VAI TR̉ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NHƯ THẾ NÀO?
Tại sao Nhà nước đóng góp 84,84% vốn đầu tư mà phải giao cho đối tác làm chủ?
Là người đề xuất xây dựng ĐSCT Hà Nội – TP.HCM, khẳng định hoà vốn sau 33,61 năm, và sau đó có lời, tại sao Bộ GTVT (nay là Bộ Xây Dựng) không đứng ra để kinh doanh lấy lời?
Tại sao các tập đoàn Nhà nước không tự nhận làm ĐSCT?
Quốc Hội phê duyệt dự án theo đề xuất của Bộ GTVT, các ĐBQH nghĩ ǵ về t́nh thế này?
VinSpeed mới thành lập, hoàn toàn không có kinh nghiệm về đường sắt như Bộ GTVT, nhưng đề xuất làm ĐSCT với các yêu cầu vô tiền khoáng hậu. Nó phản ánh t́nh thế của dự án ĐSCT Hà Nội – TP.HCM.
Kinh tế tư nhân có những ưu thế vượt trội mà kinh tế tập thể không thể có. Phải mở rộng vai tṛ kinh tế tư nhân. Đó là điều không bàn căi.
Nhưng cũng là kinh tế nhà nước, tại sao các tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc lại hùng mạnh?
Toàn bộ 48.000 km ĐSCT đă khai thác, nhiều ngàn km ĐSCT đang xây dựng đều do các tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc đảm nhiệm. Trong đó rất nổi trội là China Railway Group Limited (CREC), China State Railway Group Co., Ltd, China Railway Construction Corporation, CRRC Corporation Limited, China Communications Construction Company, và c̣n nhiều tên tuổi khác nữa.
Về mặt khoa học, Đại học Giao thông Bắc Kinh từng giữ vị trí số 1, Đại học Đồng Tế Thượng Hải từng có vị trí số 4 và Đại học Giao Thông Thượng Hải nằm trong top 12 của xếp hạng thế giới theo số lượng các bài báo nghiên cứu về kỹ thuật giao thông. Phản ánh vị thế hàng đầu của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ GTVT.
Cùng mô h́nh thể chế, thực tế hùng mạnh của các tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc minh chứng rằng về cơ chế vận hành, về nhân sự, về quản lư – Việt Nam cần phải có những thay đổi căn bản.
6. THỜI GIAN THI CÔNG
Lấy thí dụ về thời gian thi công của hai tuyến ĐSCT Trung Quốc. Sau đây là ba tuyến ĐSCT của
– Tuyến Lan Châu – Tân Cương, Tổng chiều dài: 1.776 km, Thời gian thi công: 4 năm (2009–2013).
– Tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh – Thượng Hải, Tổng chiều dài: 1.318 km, Tổng thời gian thi công: 4 năm (2008–2012).
Tuyến Tuyến Lan Châu – Tân Cương dài hơn tuyến Hà Nội – TP.HCM 235 km. Tuy tỷ lệ nền đất 63,65% cao hơn 30% của tuyến Hà Nội – TP.HCM phải xây tường chắn cát sa mạc và đường tunen rất dài chiếm 10%. Tuyến Bắc Kinh – Thượng Hải ngắn hơn tuyến Hà Nội – TP.HCM 223 km nhưng có chiều dài cầu hầm chiếm 81,7% so với 70% của tuyến Hà Nội – TP.HCM. Chiều dài của đường hầm cầu (bao gồm cả cầu sông và cầu cạn) đẩy giá thành lên rất cao.
Từ thực tế thời gian thi công 4 năm của hai tuyến nêu trên, th́ thời gian thi công 5 năm của tuyến Hà Nội – TP.HCM không phải là vấn đề lo ngại.
7. AI THỰC SỰ SẼ LÀM ĐSCT HÀ NỘI – TP.HCM?
– Xét về giá thành và thời gian xây dựng, khó mà thoát khỏi Trung Quốc.
– Các đối tác Nhật và châu Âu chỉ có chỗ đứng với xác suất không lớn.
Chúng ta bỏ tiền ra để thuê các hăng nước ngoài xây dựng ĐSCT. Đoàn tàu cao tốc có dán mác của ta th́ thực chất cũng do nước ngoài sản xuất. Điều này không có ǵ phải che dấu, cũng không có ǵ để phô trương.
8. LÀM CHỦ CÔNG NGHỆ G̀?
ĐSCT Tōkaidō Shinkansen thay đổi tốc độ theo thời gian như sau:
– 1964: 210km/h;
– 1985: 220 km/h, tàu Series 100;
– 1992: 270 km/h, tàu Series 300;
– 1999: 285 km/h, tàu Series 700;
– 2020: 285- 320 km/h, tàu N700A/ N700S.
Tốc độ tăng lên là do:
– Cải tiến về hạ tầng đường ray;
– Cải tiến về toa tàu;
– Cải tiến về đầu máy;
– Cải tiến về điều khiển và an toàn.
Chúng ta chỉ có thể sử dụng công nghệ cũ đă chuyển giao phục vụ cho tuyến đường đă xây dựng. Mà cũng chỉ một phần.
Nếu phải làm thêm một tuyến ĐSCT mới nữa, th́ công nghệ cũng sẽ thay đổi.
Chúng ta không thể làm chủ được công nghệ mới. Mọi thay đổi công nghệ mới đều phụ thuộc vào nước ngoài.
Muốn nâng tốc độ tuyến đường đă xây dựng, muốn có toa tàu, đầu máy, hệ thống điều khiển mới, chúng ta phụ thuộc vào nước ngoài.
9. CÓ NÊN BỎ TẤT CẢ TRỨNG VÀO MỘT GIỎ?
Phương Tây có câu ngạn ngữ “Đừng bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Một câu ngạn ngữ khác là “Đừng cá cược nông trại”. Người phương Đông nói “Đừng cá cược cả gia tài”. Dự án ĐSCT Hà Nội – TP.HCM cần được chia thành 3- 5 đoạn.
10. ỦNG HỘ CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN NHƯ THẾ NÀO?
VinSpeed vừa thành lập được mấy tuần. Nhưng VinSpeed xin đảm nhận dự án thế kỷ, thuộc hàng lớn nhất trong lịch sử các dự án kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại.
VỀ TINH THẦN VÀ CHỦ TRƯƠNG:
Việc VinSpeed xin làm ĐSCT là rất đáng hoan nghênh, là đáng khuyến khích. Là tự nguyện tham gia đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện vai tṛ của các doanh nghiệp tư nhân. Là thực hiện chủ trương huy động mọi nguồn lực trong xă hội để phát triển đất nước.
VinSpeed tự tin nhận v́ tin vào tài năng quản lư và khả năng huy động tài chính. Có tài chính th́ thuê được chuyên gia giỏi, thuê được tư vấn, thuê được nhà thầu. Họ sẽ làm thay cho VinSpeed. Cái mà VinSpeed cần là khả năng thương mại, để mua được giá đúng, thuê được đúng giá. Cái mà VinSpeed hy vọng có ưu thế là năng lực quản lư. Quản lư giỏi th́ biết chọn người, chọn đối tác, chọn thiết bị. Trên hết là khả năng t́m nguồn tài chính. Khi dự án có tài chính dồi dào, tất có đối tác tự t́m đến để kiếm lời.
Nhưng quan trọng nữa, để quản lư không rơi văi, để mua đúng giá, nguyên nhân sâu xa là làm việc cho lợi ích của chính ḿnh. Tài sản làm ra là của chính ḿnh chứ không phải của ai đó.
VỀ KHÍA CẠNH TÀI CHÍNH:
Không cần đến vay vốn Nhà nước, với lượng vốn dự kiến huy động 12,27 tỷ USD, VinSpeed có thể tham gia đầu tư cho tuyến Hà Nội – Vinh (281 km), hay Hà Nội – Huế (621 km), thậm chí Hà Nội – Đà Nẵng (701 km) tuỳ công nghệ. Cũng có thể lựa chọn tuyến TP.HCM – Nha Trang (361 km) hay TP.HCM – Quy nhơn (631 km).
VỀ KHÍA CẠNH CHUYÊN MÔN:
VinSpeed vừa mới thành lập, không có đội ngũ cán bộ chuyên môn về GTVT, càng hoàn toàn chưa có kinh nghiệm về thi công các dự án đường sắt.
Ở mặt khác, VinSpeed thuộc tập đoàn Vingroup, mà Vingroup đang chỉ thành công trong lĩnh vực bất động sản.
11. QUYẾT ĐỊNH THUỘC VỀ CHÍNH PHỦ:
Việc chấp nhận VinSpeed tham gia xây dựng ĐSCT như thế nào là vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng của Chính phủ.
Không chỉ VinSpeed, các tập đoàn tư nhân khác cũng nên tham gia xây dựng ĐSCT. Nhiều tập đoàn tư nhân tham gia, tuyến ĐSCT Hà Nội – TP.HCM càng có cơ hội để hoàn thành trong ṿng 5 năm. Và các tập đoàn Nhà nước càng không thể đứng ngoài. Để các tập đoàn Nhà nước tham gia, cần phải cách mạng về cơ chế và tổ chức, ít nhất là đối với dự án ĐSCT.
12. BỘ CHỈ HUY CHIẾN DỊCH
Trong nhân dân và trong các cơ quan nhà nước, không phải không có người giỏi. Chỉ có Nhà nước chưa có cơ chế phù hợp để chọn được người giỏi, trước hết là trong cơ quan Nhà nước, sau nữa là trong nhân dân. Các tập đoàn kinh tế Trung Quốc là minh chứng. Đừng đổ lỗi hết cho thể chế. Vai tṛ của Lănh đạo rất quan trọng.
Đánh Điện Biên Phủ, Bác Hồ và Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, cử Đại tướng Vơ Nguyên Giáp làm Tổng chỉ huy. Trước lúc đại tướng Vơ Nguyên Giáp lên đường, Bác Hồ trao quyền bằng 4 chữ “Tướng quân tại ngoại” và căn dặn: “Lần này ra trận, Tổng Tư lệnh toàn quyền quyết định, thắng là thắng cả nước, thua là thua chỉ một ḿnh chú”.
Trong “Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975”, trước khi tiến vào Sài G̣n, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, cử Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Chỉ huy trưởng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn kiêm Bí thư Quân uỷ Trung ương.
Trước đây, để bắt đầu một trận đánh quan trọng, Lănh đạo Đảng và Nhà nước đều thành lập một Bộ chỉ huy gồm những người tài giỏi, có đủ trí tuệ và phẩm chất để đảm đương trách nhiệm. Những trận đánh lớn nhất, quan trọng nhất, đều có sự chỉ đạo trực tiếp của người lănh đaọ cao nhất. V́ thế, ba cuộc chiến tranh chống xâm lược giai đoạn 1946-1980 mới giành được thắng lợi.
Vào thời b́nh, năm 1992, nhờ Thủ tướng Vơ Văn Kiệt trực tiếp chỉ đạo nên Dự án đường dây 500kV Bắc – Nam mới hoàn thành trong hai năm 1992-1994. Triển khai dự án quyết liệt đến mức nếu dự án thất bại Thủ tướng Vơ Văn Kiệt sẽ từ chức và Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải phải ngồi tù. Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă đến nhà tù trao huy hiệu đường dây 500kV cho Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải. Thực tế, không có Thủ tướng Vơ Văn Kiệt th́ đă không có đường dây 500kV Bắc – Nam [14].
Một trong các lợi thế của các tập đoàn kinh tế tư nhân so với các tập đoàn kinh tế nhà nước là tính kịp thời của quyết định. Có lănh đạo cao nhất mới có quyết định kịp thời. Chỉ trong chiến tranh, môi trường chiến trận mới ép buộc chúng ta tạo ra cơ chế toàn quyền.
Dự án ĐSCT Bắc – Nam là dự án thế kỷ. Dự án ĐSCT Bắc – Nam xứng đáng được có một Bộ chỉ huy chiến dịch gồm những người tài giỏi, những người có khả năng độc lập ra quyết định. Hơn thế nữa Dự án ĐSCT Bắc – Nam rất cần sự chỉ đạo trực tiếp của người lănh đạo cao nhất.
Sự hiện hữu trở thành màn tŕnh diễn mà ta quên mất ḿnh đă hoá thành nhân vật chính.
1.
Nhiều năm về trước tôi vô t́nh thấy một series tranh “Mặt Nạ” của hoạ sĩ người Trung Quốc tên Zeng Fanzhi, lư do là năm đó bức “Bữa Ăn Cuối Cùng” được bán với giá 23,3 triệu USD.
Sự ṭ ṃ của tôi về bức tranh thật “xôi thịt”, là v́ giá tiền. Suy nghĩ của tôi cũng là một biểu hiện mà hoạ sĩ Zeng t́m cách biểu đạt: xă hội tiêu dùng mới của Trung Quốc và những con người chật vật trong đó. Những bàn tay trong tranh, chắc nục thịt, đốt ngón tay quằn quèo hổ lốn, nhưng các gương mặt giống nhau và không có biểu cảm v́ đang đeo mặt nạ.
Các nhân vật đeo trên cổ loại khăn ǵ? là khăn quàng đỏ đội viên quen thuộc của đội thiếu niên tiền phong ở những nước cộng sản như Trung Quốc, Việt Nam, biểu hiện của ư thức hệ cộng sản, hay là cà-vạt màu đỏ thắt nh́n giống khăn quàng?
Trên các trang nghệ thuật, người b́nh luận gọi những chiếc khăn màu đỏ là “cà-vạt”, nhưng nút thắt mà tôi thấy là khăn quàng đỏ kiểu đội viên. Ở vị trí của Juda, kẻ phản Chúa [từ tranh gốc của Leonardo da Vinci), là cậu bé đeo chiếc cà-vạt vàng, biểu hiện của nền kinh tế hiện đại, một sự “phản bội” để tiến đến kinh tế tư bản của Trung Quốc.
Đó là bức đánh số #48, trong series tên “Mặt Nạ”. Trong các tranh khác của ông, nhân vật thường mặc áo sơ mi có nét nhàu, đeo cà vạt công chức, mang giày tây, tóc cắt gọn gàng chải ngôi 4-6.
Tất cả họ đều đeo mặt nạ. Những gương mặt trung tính, môi mím chặt, mắt nh́n thẳng, không thực sự có biểu cảm nào. Cảm xúc bị bó kín xong bật ra ở những bàn tay cục mịch to tướng, gồ ghề thịt, hoặc màu của cánh tay đỏ ửng lên như thể đó là phần xác thịt duy nhất của nhân vật mà người xem được tiết lộ.
2.
Tôi thường nh́n những bức tranh này và rùng ḿnh v́ dự cảm chúng đang biểu đạt thế giới của ḿnh, cũng dần biến h́nh theo những nét vẽ này. Có phải hội hoạ ở một quốc gia xa xôi lại mang theo tâm tính của đời sống này – chuyển động về cùng hướng chưa biết với vô vàn bất an che giấu.
Nhân vật của Zeng trong “Mặt Nạ” hay đeo cà vạt. Hồi c̣n là sinh viên, thỉnh thoảng tôi được mời tham gia vào các hội thảo bán sản phẩm đa cấp, mục đích của người mời là để ḿnh bỏ tiền tham gia vào “mạng lưới”, bán sản phẩm sức khoẻ ưu việt với giá siêu đắt, và dụ dỗ người thân họ hàng cùng vào “mạng lưới” làm giàu tự động. Có một người dắt tôi đến giới thiệu tôi với anh chàng thuyết tŕnh hôm đó. Vào năm 2007, anh mặc một bộ vest vừa khít, màu sắc nhă nhặn, ngực mở rộng đầy kiêu hănh. Bộ vest anh mặc khác hẳn với những bác lớn tuổi ở quê mặc áo vest rộng quá khổ, cà vạt xộc xệch, hay quần dài quá so với giày, trong mỗi dịp đi đám cưới con cháu.
Hôm đó anh đứng nói anh đă trở thành triệu phú ra sao. Tóc anh chải mượt, răng trắng bóng, anh đứng trên sân khấu hỏi lớn: “Mọi người có sẵn sàng thành công như Việt không?” – Cả sân khấu rú lên “sẵn sàng! sẵn sàng!” – Giữa đám đông đó, tôi thấy ḿnh nhoà đi trong thành công, như thể đi với con người ăn mặc hoàn hảo không t́ vết, chung đường với đám người tự tin hô to này, tôi cũng có thể sẽ giàu và hoàn hảo như thế. Hôm đó, tôi đến dự hội thảo trong chiếc quần thun thể dục mặc từ hồi lớp 12 và chiếc áo thun chật vai v́ tôi béo ra quá mức.
Tất nhiên, tôi không có tiền để tham gia “mạng lưới”. Nhưng tôi vẫn không ngơi nhớ đến hội trường thơm mùi nước hoa xịt pḥng, những người đàn ông đeo cà vạt, mặc áo khoác sải bước tự tin từ bàn tư vấn này đến bàn tư vấn khác, những phụ nữ mặc váy dài, trang điểm đậm, cầm theo những gói tiền dắt khách hàng đến quầy mua ra từng thùng sản phẩm ưu việt.
Vài năm sau, người quen dắt tôi đến hội thảo đă bán căn nhà cuối cùng của anh để trở thành “VIP” trong mạng lưới. Vài năm sau nữa, chàng trai thuyết tŕnh và bộ suit không t́ vết có mặt trên báo v́ tội lừa đảo. Trên báo anh vẫn mặc cùng bộ suit đó, mái tóc chải mượt. Năm đó, tôi dần hiểu ra đă có hàng chục ngàn người như tôi, không có đủ tiền mua chiếc quần tây không t́ vết, ước ao bước vào thế giới VIP của sự giàu có “đầu tư” tự sinh sôi. Trong số hàng chục ngàn nạn nhân bị lừa, chắc chắn có người đă kịp mua cà vạt, áo khoác may vừa khít và quần tây ủi thẳng xếp li để đi lừa họ hàng và những “nhà đầu tư” khác vào mạng lưới thu nhập của họ.
Người đàn ông đeo mặt nạ mỉm cười, gục đầu xuống gối trong bộ đồ tây nhăn nhúm và đôi giày tây nâu bóng lộn như đang lén nh́n tôi từ tranh của Zeng Fanzhi. Cảm thức khao khát giàu, sự choáng ngợp của thế giới hiện đại nơi mọi thứ biểu đạt thể hiện trên quần áo, gương mặt, giày. Chân dung cá nhân bị chiếc mặt nạ “ăn thịt” mất đến không c̣n chính ḿnh. Người thuyết tŕnh đa cấp ăn mặc bóng lộn đó tồn tại song song với nhân vật đeo cà vạt mà Zeng mô tả, có thể đó là h́nh ảnh đầu tiên tôi nhớ kỹ về loại trang phục này.
Sự khao khát giàu và nhân tính bị nghiền nát bởi thế giới tiêu dùng lặp đi lặp lại trong khung cảnh đời sống mà tôi có dịp quan sát trong những năm làm việc.
Một lần khác, tôi phỏng vấn một tổng giám đốc công ty cho một bài viết được yêu cầu. Ông có cách tŕnh bày cực kỳ ấn tượng. Khác với những “giám đốc” mặc suit ngày trước, ông chỉ mặc áo thun bỏ thùng trong quần tây khi tiếp phóng viên. Ông di chuyển liên tục, giải thích mọi thứ, hành động đầy năng lượng trong suốt chuyến công tác.
Những người cùng xe, là nhân viên cấp dưới, thường có hành động tỏ vẻ chăm sóc, hỏi ư kiến, hoặc ư nhị khen sự tài giỏi của ông. Tôi là người khách được tham quan màn tŕnh diễn đó. Chuyến đi kéo dài đến chiều tối, khá vất vả v́ vùng nguyên liệu sản phẩm ở xa. Khi xe về đến sảnh công ty, tôi xin phép đi vào nhà vệ sinh. Lúc trở ra, từ phía sân, tôi thấy ông cầm một xấp giấy tờ ném vào mặt cô nhân viên ban sáng vẫn nhỏ nhẹ hỏi ư kiến và làm mọi thứ ông yêu cầu. Tôi dừng lại không đi tới nữa. Cô nhân viên nhặt xấp giấy lộn xộn lên, cúi đầu xin lỗi rồi chạy vào trong. Khi ông thấy tôi trở ra, đă đưa tay ra bắt nói lời cảm ơn, không t́ vết cơn giận dữ nào. Gương mặt luôn mỉm cười, cách vung tay và cử động vai đầy năng lượng, giọng nói sang sảng tích cực đối nghịch với h́nh ảnh người ném xấp giấy vào mặt cô gái. Cả hai là một, tồn tại cùng lúc với nhau, từ khoảnh khắc này loang qua khoảnh khắc khác, nhưng chiếc mặt nạ dính vào da thịt của mặt.
Tranh “Mặt Nạ” số 4 của Zeng Fanzhi
3.
Mặt nạ có phải là chế độ thường thức mới của chúng ta? – Câu hỏi này làm phiền tôi nhiều năm.
Tôi có thói quen quan sát người xung quanh. Những người tôi thường gặp ở thôn quê hay nói huỵch toẹt ra điều họ thấy, hoặc né tránh bỏ đi nếu không muốn tiếp chuyện. Khi đối mặt với chuyện phiền ḷng, như giận dữ, bị lừa, mất người thân… họ có thể chửi bới, nói to tiếng, hay cười phớ lớ. Họ có thể mang dép hoặc đi chân đất. Tay họ vung vẩy. Gương mặt họ có cảm xúc liên đới với thể hiện lời nói. Với người gian xảo hay láu cá, cả điều đó cũng thể hiện từ cách họ nh́n, né tranh, hay từ chối.
Dân đi du lịch hay có kiểu khen người ở quê chất phác hồn hậu quá, có lẽ v́ ngạc nhiên trước sự rơ ràng về cảm xúc [cả tốt lẫn xấu] như vậy.
Nhưng trong không gian văn pḥng ở các cao ốc lớn, nơi chúng ta bước vào guồng máy chuyên nghiệp, ứng xử trở thành mô thức cần phải học. Ta không chửi vào mặt đồng nghiệp khi tức giận. Ta nói xấu họ sau lưng. Ta không thể hiện rằng ư kiến của cấp trên tệ quá. Ta im lặng rời khỏi buổi họp. Mọi người ngủ với nhiều đồng nghiệp trong cùng pḥng ban sau đó lên mạng lập group bàn tán về cơ thể họ. Mọi cảm xúc cũng đầy đủ như ở quê, v́ ta là con người, nhưng thường được che giấu sau sự phẳng lặng của bộ quần áo ủi phẳng, bàn làm việc sáng bóng, màn h́nh máy tính sáng chong chong, và tất cả gương mặt đều có nụ cười vừa phải kiềm chế những rối bời hỗn loạn bên dưới.
Nếu không làm được như vậy, ta thường bị đánh giá là kẻ không chuyên nghiệp.
Sự chuyên nghiệp được đánh giá dựa trên tiêu chí loại bỏ đời sống cá nhân khỏi không gian sản xuất tích cực năng suất cao. Mọi hành vi cản trở năng suất đều sai trái, cho dù hành vi đó t́m cách chứng minh ta là con người trong sự tồn tại đầy đủ nhất có thể. Trong tranh của Zeng Fanzhi, phần người đó chỉ tồn tại ở những bàn tay gân guốc, da thịt nổi cục, những sự bầy hầy trọn vẹn của nhân tính bị che giấu dưới giày tây, áo khoác, cà vạt và mặt nạ.
Không ít lần ta có thể nh́n thấy những diễn dịch chuyên nghiệp này trong đời sống vội vàng hiện thời, như khi một anh shipper bị người nhà của cô gái nhận hàng đánh chết ở Đà Nẵng, nhiều ư kiến nói rằng anh shipper “không chuyên nghiệp” khi gọi điện chửi và đ̣i tiền của khách, làm mất mặt công ty chuyển phát và cả công ty bán hàng. Nói cách khác, phần đời sống người của anh [nhà nghèo, mỗi đơn hàng giao chỉ được vài ngàn, phải nuôi vợ con] bị tối giản hoá xuống thành tính từ vi phạm quy tŕnh dịch vụ tiêu dùng hiện đại.
4.
Khi phẩm giá đi kèm với khả năng làm ra tiền và tiêu nhiều tiền nhất có thể.
Dạo gần đây, thủ tướng phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu. Trước cuộc phát động vài tháng, một cô gái trẻ tên Phan Thị Huyền Trang và hơn 60 người bị bắt khi về quê ăn Tết. Cô là một trong những “biên kịch” xây dựng kịch bản lừa người qua mạng nhiều lớp lang, và đă lừa hơn 1.000 tỷ đồng của các nạn nhân.
Trên Instagram và Thread của cô là những ḍng trạng thái đầy tâm trạng về nỗ lực rời khỏi nhà, đi nước ngoài làm việc, những cột mốc công việc, được ghi nhận, được thưởng công việc, hoặc tự thưởng cho bản thân khi được tăng lương. Đi cùng trạng thái là h́nh ảnh những bữa ăn đắt tiền, check-in ở nơi sang trọng, đồ hiệu tự thưởng cho bản thân.
“Thành công” của cô là khiến 13.000 nạn nhân mất tiền qua nhiều “ṿng” của cuộc lừa đảo qua mạng. Trên cổ của cô gái khi bị bắt đeo chiếc dây chuyền vừa được mua đăng trên mạng vài ngày trước khi về Tết, cô đă thành công trong cuộc thi đua làm giàu không khoan nhượng. Và những ḍng cảm xúc mơ hồ của cô gợi nhắc về một tuổi trẻ đầy ngă rẽ, nơi sự quyết tâm rời khỏi vùng an toàn thường được đền đáp xứng đáng. Chỉ có điều, khi xem chân dung trên mạng, ta không thể biết cô làm ǵ để đạt được thành công.
Mặt nạ của những sự thành công bọc bằng những vật phẩm có giá trị không tưởng. Một chiếc túi xách xuất hiện hờ hững trong ảnh có thể bằng số tiền làm việc 4-5 năm của một nhân viên b́nh thường. Những người như Trang tạo nên khao khát có thật, làm sao để sở hữu cuộc đời lóng lánh phi thường, bay khắp nơi từ nước này qua nước khác, check-in ở những thương xá hàng đầu châu lục, ngồi chờ đợi ở nhà hàng với những món ăn ta chỉ thấy trên phim.
Sự xa xỉ là lư do khiến tất cả bơi về phía thịnh vượng, không khoan nhượng với bất cứ sự chần chừ nào như nhân tính, đạo đức, nạn nhân, phẩm giá.
Người thành công nói ǵ cũng đúng. Như những nhân vật nổi tiếng trên mạng bán kẹo rau củ thu hàng tỷ đồng, người đẹp bán kem chống nắng giả, MC bán sữa giả hại người già, trẻ em. Đằng sau chiếc mặt nạ họ đeo, là thế giới mới họ tạo ra, khiến vô số người đồng t́nh đeo mặt nạ cho riêng ḿnh, tự tin bước vào thế giới tiêu dùng và mưu cầu sự vô tiền khoáng hậu, nơi không có chỗ cho những lời “bàn lui” ở hậu trường sân khấu.
Hoạ sĩ Zeng Fanzhi trả lời phỏng vấn: “Vào giữa thập niên 90, Trung Quốc chuyển ḿnh rất nhanh. Quan chức Trung Quốc bắt đầu mặc suit và đeo cà-vạt. Ai cũng muốn đẹp, nhưng đồng thời cũng có chút giả tạo. Tôi cảm thấy họ muốn thay đổi bản thân ngoài bề mặt.” (1)
Những chiếc mặt nạ ông vẽ, dường như hướng về cả bản thân và thế giới đang thay đổi nhanh chóng khi ấy, khi chủ thể đứng nh́n vào gương, tay sờ mặt, nhưng không thấy mắt mũi của chính ḿnh, mà chỉ thấy hai mắt trừng trợn và môi mỉm cười vô hồn do chiếc mặt nạ tạo ra. Người không t́m thấy phản chiếu chính bản thân nữa sau vô số lần đắp lên những tầng lớp vật chất mới của hiện thực mới.
5.
Gương mặt là thứ đầu tiên người trẻ muốn thay đổi khi bước vào đời. Tiền đề của sự thành công giờ đây bắt đầu từ thẩm mỹ viện, ngay sau buổi học cấp Ba cuối cùng chuẩn bị bước vào thế giới rộng lớn. Thẩm mỹ viện chạy quảng cáo nhắm vào thiếu niến 16-17 tuổi. Những ngôi sao trẻ tiết lộ bí kíp thành công đầu tiên là được phẫu thuật để có gương mặt hoàn hảo. V́ vậy đường vào đời sẽ suôn sẻ, nhan sắc được coi trọng, tài năng được nâng đỡ nhờ vẻ đẹp. Sự b́nh thường của tuổi trẻ giờ bị hạ thấp xuống thành tầm thường, xảy ra ở những người cẩu thả hoặc không đủ nội lực tài chính chuẩn bị bệ phóng nhan sắc cho con.
Một lần tôi t́m được quyển tiểu thuyết “Tongueless” [Cứng Họng] của nhà văn Lau Yee-Wa người Hong Kong kể về hai cô gái làm giáo viên dạy tiếng Trung Giản Thể ở một trường trung học. Một cô giáo sau đó đă tự sát bằng cách kinh khủng khiếp v́ cô nghĩ vẻ bề ngoài của cô khiến cô thất bại không được kí gia hạn hợp đồng. Cô giáo c̣n lại quyết đi phẫu thuật thẩm mỹ để có sự nghiệp thăng tiến tốt hơn. Trong sự vật lộn nghề nghiệp với một hiệu trưởng tham lam, học sinh tàn bạo, đồng nghiệp vô cảm, cả hai nhân vật đă đổ lỗi cho h́nh thể gương mặt của bản thân, thay v́ nh́n thấy những làn sóng của không gian giáo dục méo mó đang làm tổn hại hai cô.
“Tongueless” viết về gương mặt người và sự biến đổi của chính họ trong căn pḥng gương đầy ảo giác của đời sống vật chất phù phiếm, thật t́nh cờ, gần giống với người đàn ông sờ lên mặt nạ của chính ḿnh mà Zeng Fanzhi vẽ.
Thay v́ nh́n thấy những sức mạnh nghiền nát mỗi thân phận ở tầm vĩ mô, ta chỉ thấy gương mặt là thứ duy nhất có lỗi trong sự tồn tại bất lực của chính ḿnh.
Nhưng sự dằn vặt này thường quá phức tạp, trong cơn khát được sống và sống thật nhanh, ta chọn cách dễ nhất, cầm mặt nạ đeo lên, bước ra ngoài thế giới. Ở đó, bản thể không quan trọng bằng cách thể hiện, nơi sự u buồn cá nhân không có chỗ đứng, nơi ta bôi xoá sự khác biệt bằng vẻ bề ngoài đồng phục dễ thấy. Khi bước vào đám đông triệu triệu gương mặt hệt như ḿnh, ta thở phào nhẹ nhơm v́ không cần phải nhận trách nhiệm về sự hiện hữu phức tạp mà ḿnh đang cố che giấu.
Thật nhẹ nhơm.
_________
Chú thích:
Toàn bộ tranh của hoạ sĩ Zeng Fanzhi, đăng trên Sotheby’s
Tri ân một cách thành kính và trân trọng nhất đối với một người từ trần là thể hiện nét đẹp truyền thống của dân tộc ta từ ngàn xưa cho đến hôm nay. Mồ yên mả đẹp là phản ánh sự mong muốn và việc làm của người sống dành cho người đă chết.
Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự tri ân một cách trân trọng nhất đối với cán bộ, Đảng viên, nhất là lănh đạo từ trần bằng nhiều chính sách và quy định rất cụ thể. Tuy nhiên không biết đă có quy định về mức độ chi tiêu đối với lễ Quốc tang và tổ chức tang lễ cấp Nhà nước hay chưa… C̣n đối với cán bộ, Đảng viên các cấp th́ đă có quy định khá cụ thể và mức độ cấp tiền cũng rất khiêm tốn, thấp rất xa so với mức chi tiêu thực tế của gia đ́nh.
Đă có quy định về nơi an táng đối với các vị được quốc tang, cũng như các vị lănh đạo cấp cao là được yên nghỉ tại nghĩa trang Mai Dịch thành phố Hà Nội, nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh cũng như các nghĩa trang của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Thế nhưng, trong những năm gần đây nhiều vị được quốc tang và nhiều vị được tiêu chuẩn an táng tại nghĩa trang Mai Dịch đă từ chối để đưa về an táng tại quê nhà, ở gần th́ trên dưới 100 km c̣n có nơi xa tới hàng ngh́n km. Thế nên, sự chi tiêu của Nhà nước dành cho việc an táng các vị này lên một khoản tiền vô cùng lớn như phải dành một chuyên cơ, tại địa phương nơi an táng phải sử dụng hàng trăm ô tô, hàng ngh́n cán bộ, chiến sĩ phục vụ cho lễ an táng.
Cách đây hơn chục năm, sau khi xong lễ quốc tang của một Đại tướng là cứu quốc công thần, đă có việc phu nhân của vị lănh cấp cao nhất, cao hơn chức vụ đối với vị Đại tướng kia, đă viết một bức tâm thư dài hơn 10 trang, gửi lănh đạo cấp cao, nêu lên nhiều vấn đề đáng suy nghĩ. Bà cho rằng, có một sự thiên vị quá mức trong tang lễ đối với chồng bà và vị Đại tướng kia. Bà cũng tỏ ư không đồng t́nh với việc chi quá nhiều tiền và mất rất nhiều đất đai để an táng vị Đại tướng này. (Những người biết nội dung bức thư này bày tỏ thái độ rất khác nhau).
An táng tại đâu là quyền của người đă khuất, theo di nguyện của họ trước khi mất, cũng như theo nguyện vọng của gia đ́nh người đă khuất. Thế nên, đối với các vị lănh đạo được tổ chức quốc tang và tổ chức tang lễ theo cấp Nhà nước được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội mà không an táng tại nghĩa trang Mai Dịch để đưa về an toàn tại quê nhà là điều rất b́nh thường. Tuy nhiên, theo tôi, cũng như có lẽ của nhiều cán bộ Đảng viên và người dân b́nh thường khác th́ cần thực hiện đúng quy định và b́nh đẳng với tất cả các vị được tổ chức quốc tang và được tổ chức tang lễ cấp Nhà nước.
Đó là đối với cấp quốc tang cũng như lễ tang theo cấp Nhà nước th́ phải quy định rất rơ ràng là được chi tối đa là bao nhiêu tiền. Nếu vượt quá số tiền đó th́ gia đ́nh phải chịu và nếu chi tiêu thấp dưới mức tiền đó th́ gia đ́nh được hưởng số tiền không chi tiêu hết. Nếu thực hiện như vậy, tôi tin rằng sẽ rất nhiều gia đ́nh tổ chức tang lễ cho người thân của gia đ́nh được tiêu chuẩn như vậy sẽ làm rất tiết kiệm.
Có lẽ từ nay không nên đối với quốc tang là cứ chi tiền theo thực tế phải chi mà như thế th́ số tiền sẽ là cực kỳ lớn.
Không như ở một số nước đối với người được quốc tang là cực kỳ ít. C̣n ở nước ta, quốc tang là rất nhiều, bởi có tới bốn chức danh được quốc tang mà có nhiệm kỳ tới năm sáu vị có tiêu chuẩn quốc tang bởi có vị chỉ làm dăm ba tháng hoặc một vài năm ở cương vị tứ trụ.
Cũng xin lưu ư rằng, không nhất thiết các vị được quốc tang đă là có công lao và uy tín hơn những cán bộ cấp cao khác mà do nhiều nguyên nhân không được bố trí ở hàng tứ trụ nên không được quốc tang.
Trong ảnh là một vài h́nh ảnh khi đưa thi hài của Chủ tịch nước Trần Đức Lương về an táng tại quê nhà xă Phổ Khánh, thị trấn Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngăi. Điều đáng ghi nhận trong lễ tang này là nhân dân địa phương được hưởng thành quả một con đường dài 1,5 km đă được mở rộng tới 6,5 m là do có việc đưa thi hài của nguyên Chủ tịch nước đến nghĩa trang nên phải mở rộng con đường nông thôn nhỏ hẹp thành đường bê tông nhựa rộng như vậy.
Tóm tắt: Trong số hàng chục quốc gia bị áp thuế quan cao, Việt Nam là một trong những quốc gia công khai sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của chính quyền Trump nhất. Nhưng Trung Quốc đang đóng vai kỳ đà cản mũi.
Cỗ máy hậu cần khổng lồ của Trung Quốc đang hoạt động bên trong những dăy nhà kho làm từ kim loại gần Thành phố Hồ Chí Minh ở miền Nam Việt Nam trong tháng này. Hàng trăm công nhân đang đóng gói mỹ phẩm, quần áo và giày dép cho Shein, nhà bán lẻ thời trang nhanh của Trung Quốc. Bộ phận tuyển dụng của công ty cần tuyển thêm hàng trăm vị trí, đang phỏng vấn các ứng viên bên ngoài.
Tại một khu công nghiệp khác, thuộc sở hữu của bộ phận chuỗi cung ứng của Alibaba, gă khổng lồ thương mại điện tử Trung Quốc, xe tải ra vào với tốc độ ổn định.
Hoạt động này, được tiền vốn của Trung Quốc thúc đẩy, đă mang lại công ăn việc làm cho Việt Nam. Đây là một trong những động lực khiến Việt Nam trở thành điểm đến thịnh vượng cho các công ty trên toàn thế giới đang t́m kiếm giải pháp thay thế cho các nhà máy ở Trung Quốc.
Nhưng khi cuộc chiến thương mại của Tổng thống Mỹ Trump đang làm đảo lộn chuỗi cung ứng, Trung Quốc đang nổi lên là rào cản lớn nhất đối với Việt Nam khi nước này cố gắng tránh mức thuế quan 46%.
Các quan chức Việt Nam đang gấp rút đạt được thỏa thuận trước khi thời gian tạm dừng 90 ngày đối với mức thuế mới kết thúc vào đầu tháng 7. Họ đă gặp các quan chức chính quyền ở Washington tuần này để tiến hành ṿng đàm phán thứ hai. Các quan chức Việt Nam cho biết, các cuộc đàm phán sẽ được tiếp tục vào tháng tới.
Chính quyền Trump muốn Việt Nam hành động nhiều hơn nữa để trấn áp các công ty đang chuyển hàng hóa từ Trung Quốc sang Việt Nam nhằm tránh thuế, một hoạt động được gọi là trung chuyển (transshiping).
Nhưng chính quyền Mỹ cũng đang xem xét vấn đề này theo cách vượt ra ngoài định nghĩa thông thường về trung chuyển khi họ cố gắng khiến nền kinh tế Mỹ tách khỏi sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Điều đó khiến các quốc gia phụ thuộc vào Trung Quốc để sản xuất hàng hóa mà họ xuất khẩu sang Mỹ, phải chịu áp lực nặng nề.
Đối với Việt Nam, thách thức là việc phải chứng minh rằng những ǵ họ gửi đến Mỹ được sản xuất tại Việt Nam chứ không phải tại Trung Quốc. Trong một dấu hiệu cho thấy, vị thế khó xử mà họ đang gặp phải, Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của ông Trump, gần đây đă gọi Việt Nam là “thuộc địa của Trung Quốc”.
Việt Nam là nước hưởng lợi lớn từ thuế quan mà ông Trump áp lên hàng hóa Trung Quốc trong nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên của ḿnh. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đă tăng lên 123,5 tỷ đô la vào năm 2024, từ mức 38,3 tỷ đô la vào năm 2017.
Việc sắp xếp lại các ḍng chảy thương mại đă tăng tốc vào tháng 4, khi Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế 145%, lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc đă tăng vọt lên 15 tỷ đô la, trong khi lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt tổng cộng 12 tỷ đô la. Bắc Kinh và Washington kể từ đó đă đạt được một thỏa thuận tạm thời để cắt giảm thuế quan.
Adam Sitkoff, giám đốc điều hành Pḥng Thương mại Mỹ tại Hà Nội, cho biết: “Ưu tiên của Trump là Việt Nam phải giải quyết vấn đề trung chuyển và bảo đảm rằng hai nước có thể kư kết điều ǵ đó chứng tỏ Việt Nam đang hành động”.
Để ứng phó, Việt Nam đă thành lập một lực lượng đặc nhiệm trong tháng này để “đàn áp mạnh mẽ nạn buôn lậu, gian lận thương mại” và “xuất khẩu hàng hóa dán nhăn sai là ‘Sản xuất tại Việt Nam’”, và Bộ Tài chính Việt Nam đă gặp gỡ Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Mỹ để thảo luận về việc hợp tác và chia sẻ thông tin.
Bất chấp những nỗ lực này, các quan chức của Trump cho biết, chúng vẫn chưa đủ.
Priyanka Kishore, một nhà kinh tế tại Singapore và là người sáng lập công ty tư vấn Asia Decoded, cho biết: “Việt Nam rất khó có thể chứng minh với chính phủ Mỹ rằng việc xuất khẩu các hàng hóa dán nhăn Việt Nam không chỉ là việc chuyển hướng hàng hóa Trung Quốc“.
Bà Kishore nói: “Trung Quốc là nhà cung cấp bán thành phẩm trung gian lớn nhất của Việt Nam, v́ vậy nếu bạn đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ, bạn sẽ thấy lượng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên”.
Việt Nam và các nước châu Á khác đều phụ thuộc vào Trung Quốc về nguồn cung cấp để sản xuất hàng hóa thành phẩm. V́ vậy, khi quá tŕnh sản xuất chuyển từ các nhà máy ở Trung Quốc sang các nhà máy ở nơi khác, phần lớn sự gia tăng đột biến trong xuất khẩu từ Trung Quốc sang các nước láng giềng có thể là các nguyên liệu thô được các nhà máy này sử dụng.
Tuy nhiên, một số hàng nhập khẩu từ Trung Quốc của Việt Nam rơ ràng là hàng thành phẩm được vận chuyển qua Việt Nam đến các nước khác với nguồn gốc xuất xứ được ngụy trang sẵn từ Trung Quốc, và điều này bị coi là bất hợp pháp trên toàn thế giới.
Bà Kishore cho biết, có rất ít dữ liệu để biết chính xác có bao nhiêu hàng hóa thuộc danh mục trung chuyển. Theo một ước tính, hoạt động chuyển hướng đă tăng lên 16,5% hàng xuất khẩu sang Mỹ sau khi ông Trump áp thuế nhiệm kỳ đầu tiên đối với Trung Quốc, một phần là do các công ty do Trung Quốc sở hữu.
Mức thuế cao ngất ngưởng đối với hàng hóa Trung Quốc hồi tháng trước đă khiến nhiều nhà sản xuất t́m kiếm các lựa chọn ở Việt Nam. Sau khi ông Trump chặn một lỗ hổng cho phép người Mỹ mua hàng giá rẻ từ Trung Quốc miễn thuế, công ty Shein đă đưa ra hướng dẫn và trợ cấp cho các nhà máy để chuyển hoạt động sang Việt Nam.
Shein đă không trả lời yêu cầu b́nh luận.
Phần lớn hoạt động đó là hoạt động di chuyển hợp pháp của chuỗi cung ứng khi các công ty chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc và đến những nơi có mức thuế quan thấp hơn.
Nhưng chính quyền Trump đang có lập trường rất cứng rắn. “Trung Quốc sử dụng Việt Nam để chuyển hàng nhằm trốn thuế“, ông Navarro nói. Mục tiêu của ông là dựng hàng rào xung quanh hàng xuất khẩu của Trung Quốc.
Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Hinrich Foundation, một tổ chức tập trung vào thương mại, cho biết: “Mỹ dường như đang lập luận rằng bất kỳ thứ ǵ có nguồn gốc từ Trung Quốc đều mặc định là hàng trung chuyển, v́ vậy họ sẽ đóng dấu thuế quan cao lên mọi sản phẩm có nguồn gốc từ Trung Quốc“.
Ngăn chặn việc trung chuyển bất hợp pháp là một chuyện; ngắt kết nối chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc tỏ ra phức tạp hơn nhiều. Hầu hết những thứ mà người Mỹ mua đều có nguyên liệu thô từ Trung Quốc — cho dù đó là nhựa trong đồ chơi trẻ em, cao su trong giày dép hay chỉ khâu trong áo sơ mi.
Bà Elms nói: “Các chính phủ châu Á đang được yêu cầu định nghĩa lại chuỗi cung ứng, mà có thể mất hàng thập niên để tạo ra, để đổi lấy điều ǵ? Điều này có vẻ không rơ ràng”.
Đối với ngành dệt may của Việt Nam, việc loại Trung Quốc ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ là một vấn đề lớn. Các nhà máy Việt Nam nhập khẩu khoảng 60% vải mà họ sử dụng từ Trung Quốc, theo Trần Như Tùng, phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam.
Ông Tùng nói: “Nếu không có Trung Quốc, chúng tôi không thể sản xuất sản phẩm. Việt Nam sẽ không có nguyên liệu để sản xuất thành phẩm. Và nếu không có Mỹ, Việt Nam sẽ không thể xuất khẩu thành phẩm. V́ vậy, chính phủ Việt Nam phải t́m sự cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ, và Việt Nam rất khó có thể làm được điều này”.
Để cố gắng xoa dịu bất kỳ thỏa thuận nào với chính quyền Trump, Việt Nam đă đề nghị tăng cường mua hàng hóa của Mỹ như sản phẩm nông nghiệp và máy bay Boeing, đồng thời hạn chế vận chuyển hàng hóa Trung Quốc sang Mỹ.
Nhưng làn sóng đầu tư và tuyển dụng của các công ty Trung Quốc tiếp tục làm mọi thứ trở nên phức tạp.
Tại tỉnh Long An ở phía Nam, nơi có nhiều nhà máy giày dép và dệt may, công ty Shein đang tiến hành tuyển dụng.
Vào một ngày thứ sáu gần đây, Huy Phong, một nhà tuyển dụng treo một tờ quảng cáo việc làm trên hàng rào bên ngoài một kho hàng của Shein. Nội dung là tuyển dụng công việc bốc xếp hàng hóa và phân loại kiêm đóng gói các mặt hàng thời trang như túi xách, quần áo và giày dép. Mức lương: 385 đến 578 đô la một tháng. Shein cần 2.000 công nhân cho kho hàng của ḿnh và cho đến nay chỉ tuyển dụng được một nửa số đó, ông Phong cho biết.
Việc t́m kiếm nhân công rất khó khăn. Rất nhiều công ty kho băi và hậu cần tại Long An đang tuyển dụng.
Gần đó, Dương Minh Giang đang rời khỏi cuộc phỏng vấn với tâm trạng chán nản. Anh cho biết, công việc này đ̣i hỏi phải xử lư nguyên liệu thô từ Trung Quốc như sợi và thuốc nhuộm hóa học để lưu trữ tại kho và chuyển đến các nhà máy gần đó để may quần áo.
Anh nói: “Nhưng tôi không nghĩ ḿnh sẽ nhận công việc này. Mức lương thấp quá”.
Nghị quyết 68 và hướng đi mới của nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam đang chứng kiến sự chuyển ḿnh trong tư duy phát triển kinh tế. Khu vực tư nhân – hiện đóng góp khoảng 50-51% GDP cả nước và tạo ra trên 82% việc làm – được Chính phủ xác định là động lực tăng trưởng chủ chốt cho giai đoạn tới.
Tháng 5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW với mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân tăng trưởng 10-12%/năm (nhanh hơn tốc độ tăng GDP chung) và đóng góp 55-58% GDP. Nghị quyết 68 đề ra tham vọng có hai triệu doanh nghiệp (hiện khoảng 940.000) và ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn vươn tầm khu vực và toàn cầu vào năm 2030. Trong tầm nh́n đến 2045, khu vực tư nhân sẽ chiếm trên 60% GDP, trở thành trụ cột của nền kinh tế độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đây là một bước ngoặt trong chính sách công nghiệp của Việt Nam. Suốt nhiều thập kỷ, khu vực nhà nước và FDI thường được ưu tiên trong chiến lược phát triển. Giờ đây, Nghị quyết 68 khẳng định kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế, tiên phong về tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Chính phủ cam kết tạo môi trường kinh doanh minh bạch, b́nh đẳng, giảm chi phí, bảo đảm quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, Nghị quyết vạch ra chính sách “chọn ngành chiến lược”, tập trung nguồn lực hỗ trợ các lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn (như năng lượng, hạ tầng số, công nghệ cao, công nghiệp quốc pḥng…) với sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân.
Chính phủ dự kiến sử dụng nhiều công cụ: Từ ưu đăi thuế, tín dụng đến đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu cho doanh nghiệp tư nhân tham gia dự án lớn. Các h́nh thức hợp tác công-tư (PPP) sẽ được mở rộng trong hạ tầng, công nghệ, nhằm huy động vốn tư nhân cho các dự án quốc gia. Đặc biệt, chương tŕnh phát triển 1.000 doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu về công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ được triển khai.
Song song, Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và hộ kinh doanh – từ hoàn thiện pháp lư, thu hẹp phân biệt đối xử đến hỗ trợ về vốn, công nghệ, đào tạo. Rơ ràng, mục tiêu là xây dựng một khu vực tư nhân “2 tốc độ”: Vừa có “đại bàng” dẫn dắt ngành mũi nhọn, vừa có mạng lưới “chim sẻ” – các DNNVV năng động, sáng tạo.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là, liệu chiến lược tạo ra các tập đoàn tư nhân lớn có dẫn đến hệ quả “cá lớn nuốt cá bé”, làm suy yếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)? Liệu ưu đăi cho “người tiên phong” có vô t́nh tạo đặc quyền cho một nhóm doanh nghiệp, làm gia tăng hành vi “rent-seeking”, tức là hành vi trục lợi chính sách thay v́ cạnh tranh lành mạnh và thu được lợi nhuận từ hiệu quả sản xuất kinh doanh?
Phần tiếp theo sẽ phân tích nguy cơ chèn ép DNNVV trong bối cảnh mới, trước khi rút ra bài học từ các mô h́nh công nghiệp ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Mỹ Latinh.
Nguy cơ “chèn ép” và rent-seeking: Doanh nghiệp lớn so với DNNVV
Chính sách công nghiệp mới kỳ vọng các “đại bàng” tư nhân sẽ kéo cả nền kinh tế cất cánh. Song thực tế, chênh lệch quy mô và nguồn lực giữa doanh nghiệp lớn và DNNVV tại Việt Nam đang rất lớn, tiềm ẩn hiện tượng “crowding out” (chèn ép) – hiện tượng doanh nghiệp lớn lấn át, chèn ép không gian phát triển của doanh nghiệp nhỏ. DNNVV chiếm 98% số doanh nghiệp, nhưng chỉ nắm chưa đến 30% tổng vốn và tiếp cận chưa đến 18% tín dụng toàn hệ thống (Asian Development Bank, 2021). Ngược lại, 2% doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp lớn) lại nắm khoảng 70% nguồn vốn kinh doanh.
Bảng 1: Tỷ trọng doanh nghiệp lớn và DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam (2024)
Không chỉ vốn, tiếp cận đất đai, dự án cũng là vấn đề. Nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam phát triển mạnh nhờ kinh doanh bất động sản, tích lũy tài sản đất đai thông qua quan hệ “thân hữu” với cơ quan có thẩm quyền phân bổ đất đai.
Đất đai – tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lư – trên thực tế thường rơi vào tay một số doanh nghiệp có quan hệ, tạo lợi thế lớn cho họ so với phần c̣n lại. Khi các “đại gia” đă nắm trong tay quỹ đất lớn và ḍng vốn mạnh, họ có thể thâu tóm thị phần ở nhiều lĩnh vực, từ bán lẻ, xây dựng đến sản xuất. Các DNNVV đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngoài cuộc chơi ngay trên sân nhà.
Đáng quan ngại hơn là hành vi rent-seeking – tức doanh nghiệp dùng ảnh hưởng để giành lợi ích từ chính sách thay v́ nâng cao hiệu quả. Ở Việt Nam, t́nh trạng “doanh nghiệp sân sau”, “lợi ích nhóm” khá phổ biến, tạo môi trường cạnh tranh bất b́nh đẳng. Những doanh nghiệp lớn có quan hệ “thân quen” dễ dàng giành hợp đồng, dự án, đất đai…, trong khi doanh nghiệp chân chính bị thu hẹp cơ hội kinh doanh. Một khảo sát cho thấy 70% doanh nghiệp tin rằng các nguồn lực chủ yếu rơi vào doanh nghiệp có quan hệ với quan chức, và 69% cho rằng phải có “mối quan hệ” mới tiếp cận được thông tin, tài liệu ở địa phương (World Bank, 2019).
Hệ quả là những doanh nghiệp thấp cổ bé họng bị chèn ép tứ bề, khó có thể lớn lên được. Họ phải trả giá cao hơn cho nhiều loại đầu vào (đất đai, mặt bằng, vận tải…) do thị trường bị các nhóm lợi ích thao túng. Biên lợi nhuận vốn mỏng lại càng teo tóp, khiến các DNNVV thiếu tích lũy để tái đầu tư, không dám “làm lớn” hay làm dài hạn. Hiện tượng này được gọi là sự thiếu vắng các doanh nghiệp cỡ vừa (the missing middle) trong hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong bối cảnh Nghị quyết 68, Chính phủ trao cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân tham gia dự án lớn và nhận ưu đăi đặc thù. Nếu không có tiêu chí minh bạch, cạnh tranh, e rằng chỉ những “ông lớn” quen mặt mới hưởng lợi. Ví dụ, chủ trương cho phép chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế ở các dự án quan trọng có thể dẫn tới việc một vài tập đoàn tư nhân thâu tóm dự án hạ tầng, năng lượng. Các DNNVV khó ḷng chen chân v́ không đủ vốn và quan hệ. Khi đó, đặc quyền sẽ càng tập trung vào nhóm nhỏ doanh nghiệp đứng đầu, tiềm ẩn nguy cơ độc quyền, thao túng thị trường.
Thay v́ tạo sân chơi b́nh đẳng, khuyến khích sự phát triển đa dạng, có tính bao trùm cao, chính sách có thể vô t́nh củng cố ưu thế cho “người giàu” – những tập đoàn lớn sẵn có quyền lực kinh tế – làm gia tăng bất b́nh đẳng. Hệ quả có thể thấy ở một số lĩnh vực: Trong bán lẻ, sự bành trướng của các chuỗi siêu thị, trung tâm thương mại lớn đă khiến không ít cửa hàng nhỏ lẻ phải đóng cửa. Trên thị trường bất động sản, các “đại gia” gom quỹ đất lớn, dự án nhỏ lẻ khó tồn tại.
Quan hệ “cộng sinh” giữa doanh nghiệp lớn và cơ quan quản lư cũng có nguy cơ biến tướng thành “chủ nghĩa thân hữu” (crony capitalism) – nơi quyết sách bị chi phối bởi lợi ích của vài đại tập đoàn thay v́ lợi ích chung. Đây chính là dạng rent-seeking nguy hiểm: Doanh nghiệp “xin-cho” được ưu đăi, bảo hộ, c̣n động lực nâng cao năng suất, đổi mới sáng tạo th́ giảm đi.
Tóm lại, trong quá tŕnh triển khai Nghị quyết 68, Việt Nam phải đối mặt với mâu thuẫn mục tiêu: Làm sao hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân lớn để họ đủ sức dẫn dắt công nghiệp mũi nhọn, mà vẫn bảo đảm sân chơi công bằng cho đại đa số DNNVV? Kinh nghiệm quốc tế về chính sách công nghiệp – đặc biệt chiến lược “chọn người thắng cuộc” – sẽ cung cấp bài học quư giá để dung ḥa mục tiêu này.
Kinh nghiệm quốc tế: Thành công và thất bại khi “chọn người thắng cuộc”
Việc nhà nước định hướng phát triển một số ngành chiến lược và nâng đỡ doanh nghiệp đầu tàu không phải mới. Nhiều quốc gia đă thực hiện chính sách công nghiệp tương tự, nhưng kết quả rất khác nhau. Nh́n sang Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Mỹ Latinh – ba khu vực áp dụng chiến lược phát triển công nghiệp với hoàn cảnh và cách thức khác nhau – có thể rút ra những bài học về vai tṛ nhà nước, năng lực điều phối, cũng như tác động đến cạnh tranh, đầu tư, sáng tạo và cấu trúc thị trường.
Đông Bắc Á: Nhà nước kiến tạo và các tập đoàn hùng mạnh
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những ví dụ kinh điển về chính sách công nghiệp thành công ở Đông Bắc Á, dù mô h́nh mỗi nước có khác biệt. Điểm chung là chính phủ giữ vai tṛ “nhà nước kiến tạo phát triển” – can thiệp mạnh và có chiến lược dài hạn, song song với việc duy tŕ kỷ luật thị trường ở mức độ nhất định.
Tại Nhật Bản, sau Thế chiến II, Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế (MITI) đă định hướng vốn và công nghệ vào các ngành mũi nhọn: thép, ô tô, điện tử. Nhà nước bảo hộ thị trường nội địa cho doanh nghiệp trong nước, đổi lại yêu cầu họ vươn ra cạnh tranh quốc tế. Kết quả, Nhật Bản vươn lên thành cường quốc công nghiệp vào thập niên 1970-1980. Tuy nhiên, thành công của Nhật có sự cân bằng: Chính phủ không tạo độc quyền tuyệt đối cho một công ty, mà khuyến khích một nhóm hăng trong nước cạnh tranh lẫn nhau rồi cùng ra thế giới.
Hàn Quốc thập niên 1960-1980 là ví dụ nổi bật khác. Chính quyền Park Chung Hee thực hiện chiến lược “xuất khẩu hóa”: chọn một số chaebol (tập đoàn gia đ́nh lớn) để tập trung hỗ trợ – từ tín dụng ưu đăi, trợ cấp, đến bảo hộ thị trường nội địa – nhằm xây dựng ngành công nghiệp nặng và công nghệ. Hàn Quốc thành công trong việc tạo ra những “người khổng lồ” như Samsung, Hyundai, LG. Yếu tố quyết định là nhà nước gắn hỗ trợ với kỷ luật nghiêm ngặt: các chaebol phải đạt chỉ tiêu xuất khẩu và hiệu quả nhất định, nếu không sẽ bị cắt hỗ trợ.
Biểu đồ 1: Sự tăng trưởng GDP và xuất khẩu của Hàn Quốc dưới mô h́nh chaebol (1960-1990)
Đài Loan đi một con đường tinh tế hơn: thay v́ nuôi dưỡng vài đại gia tư nhân, Đài Loan tập trung phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và sản xuất linh kiện. Chính phủ Đài Loan đầu tư mạnh vào giáo dục, viện nghiên cứu, vườn ươm công nghệ (như Hsinchu Science Park), tạo môi trường cho hàng loạt công ty cỡ vừa tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Mô h́nh Đông Bắc Á nhấn mạnh: vai tṛ nhà nước mạnh mẽ + kỷ luật thị trường + chú trọng xuất khẩu là công thức thành công. Nhưng mặt khác, cần tránh để các “người khổng lồ” trở nên quá quyền lực, làm lu mờ hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ.
Đông Nam Á: Thành công hạn chế và mặt trái của bảo hộ
Các nước Đông Nam Á cũng từng noi gương Đông Bắc Á áp dụng chính sách công nghiệp, nhưng kết quả khá trái chiều, phần lớn do năng lực nhà nước và mức độ rent-seeking khác biệt.
Thái Lan chủ yếu dựa vào thu hút FDI và phát triển cụm ngành do nước ngoài dẫn dắt hơn là xây dựng “nhà vô địch” nội địa. Trong thập niên 1980-1990, Thái Lan phát triển mạnh ngành ô tô bằng cách lập khu công nghiệp chuyên dụng (Eastern Seaboard), mời các hăng Nhật Bản vào lắp ráp. Chính phủ Thái hỗ trợ hạ tầng, miễn giảm thuế, yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa – một dạng chọn ngành nhưng không độc quyền giao cho công ty Thái nào. Kết quả, Thái Lan trở thành “Detroit của châu Á”, xuất khẩu ô tô top đầu khu vực. Tuy nhiên, do dựa vào FDI, doanh nghiệp Thái trong chuỗi giá trị chủ yếu làm phụ tùng, dịch vụ phụ trợ; ít tập đoàn tư nhân bản địa nào vươn tầm quốc tế trong công nghiệp.
Malaysia điển h́nh cho chiến lược “chọn người thắng cuộc” có kết quả nửa vời. Những năm 1980, Thủ tướng Mahathir Mohamad khởi xướng dự án ô tô quốc gia Proton. Proton được bảo hộ thị trường chặt chẽ, người dân mua xe ngoại phải chịu thuế rất cao, giúp Proton chiếm phần lớn thị phần nội địa suốt thời gian dài. Tuy nhiên, do thiếu cạnh tranh, Proton không phát triển được sản phẩm đủ sức vươn ra quốc tế. Khi ASEAN dần giảm thuế quan theo các hiệp định, xe Nhật, Hàn tràn vào, Proton mất dần thị phần và tụt hậu công nghệ.
Indonesia thời kỳ Tổng thống Suharto (1967-1998) cho thấy mặt trái rơ rệt của chủ nghĩa thân hữu trong công nghiệp. Chính quyền Suharto đề ra nhiều kế hoạch công nghiệp lớn, nhưng đa phần lợi ích rơi vào tay gia đ́nh và “quân xanh” của ông. Ví dụ nổi tiếng là dự án ô tô “quốc gia” Timor năm 1996: Suharto trao đặc quyền sản xuất xe nội địa cho công ty của con trai út Tommy Suharto, nhập khẩu nguyên chiếc xe Kia (Hàn Quốc) về dán mác Timor và được miễn thuế. Dự án này bị các nước kiện v́ phá vỡ nguyên tắc WTO và sụp đổ sau khủng hoảng 1997.
Bảng 2: So sánh hiệu quả của chính sách công nghiệp tại Đông Nam Á (Thái Lan, Malaysia, Indonesia)
Mỹ Latinh: Cảnh báo từ những “nhà vô địch” thất bại
Mỹ Latinh trong thế kỷ 20 nổi tiếng với chiến lược “thay thế nhập khẩu” – dựng hàng rào bảo hộ để xây dựng công nghiệp nội địa. Phần lớn các nỗ lực này không tạo ra “nhà vô địch” cạnh tranh toàn cầu, mà lại h́nh thành những doanh nghiệp tŕ trệ, sống dựa vào bao cấp.
Ở Brazil và Mexico, giai đoạn 1950-1980, chính phủ lập nhiều doanh nghiệp quốc doanh và ưu đăi cho một số tập đoàn tư nhân trong nước, kỳ vọng họ sẽ lớn mạnh. Tuy nhiên, do thiếu sức ép cạnh tranh, nhiều “ông lớn” nội địa kém hiệu quả, sản phẩm đắt và lạc hậu so với thế giới.
Brazil là bài học điển h́nh nhất về rủi ro của chiến lược chọn “nhà vô địch”. Thập niên 2000, chính phủ Brazil triển khai chương tŕnh chọn vài tập đoàn tư nhân triển vọng để bơm vốn lớn từ Ngân hàng Phát triển (BNDES). Những cái tên như JBS (chế biến thịt), OGX thuộc tập đoàn EBX của Eike Batista (dầu khí, khai khoáng), Odebrecht (xây dựng)… đều nhận hàng tỷ USD vốn vay ưu đăi. Nhưng đến đầu thập niên 2010, mặt trái bộc lộ. Eike Batista phá sản vỡ nợ; Odebrecht vướng bê bối tham nhũng lớn nhất lịch sử Brazil; JBS gây chấn động khi thú nhận đă hối lộ hơn 1.800 chính trị gia Brazil để đổi lấy ưu đăi và vốn từ BNDES.
Mexico từng bảo hộ ngành ô tô nội địa và điện tử, nhưng khi mở cửa theo NAFTA, hầu hết công ty nội địa không trụ nổi, nhường sân cho hăng Mỹ, Nhật. Mexico có vài tập đoàn tư nhân lớn thành công (như Cemex, Bimbo, América Móvil), nhưng phần nhiều thành công nhờ mua lại công ty nhà nước khi tư nhân hóa. Chính phủ Mexico không thực sự “chọn ra” những công ty này từ đầu, mà họ tận dụng cơ hội thị trường. Nhưng độc quyền tư nhân như América Móvil từng gây ra chi phí viễn thông rất cao tại Mexico, chèn ép cạnh tranh.
Tư bản thân hữu và hệ lụy kinh tế ở Đông Nam Á và Mỹ Latinh
Khái niệm tư bản thân hữu (crony capitalism) ám chỉ t́nh trạng lợi ích kinh tế bị kiểm soát bởi một số ít doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với các chính trị gia và giới chức cầm quyền, thay v́ thông qua cạnh tranh b́nh đẳng trên thị trường. Mô h́nh này đă để lại nhiều hậu quả nặng nề cho các nền kinh tế Đông Nam Á và Mỹ Latinh, đặc biệt khi xảy ra khủng hoảng tài chính.
Tại Đông Nam Á, cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 là minh chứng rơ nhất. Ở Indonesia, mô h́nh kinh tế dưới thời Suharto tập trung vào các doanh nghiệp do gia đ́nh tổng thống và thân hữu điều hành. Những tập đoàn như Salim Group, Lippo Group và các công ty của con cái Suharto đă nắm giữ những vị trí thống trị trong các ngành chủ chốt (ngân hàng, bất động sản, sản xuất ô tô). Khi khủng hoảng tài chính 1997 nổ ra, cấu trúc này nhanh chóng bộc lộ sự yếu kém: các doanh nghiệp thân hữu thường vay nợ quá mức, sử dụng vốn thiếu hiệu quả, và phụ thuộc mạnh vào các ưu đăi đặc biệt. Khi ḍng vốn nước ngoài rút đi, những doanh nghiệp này không thể trụ vững, dẫn đến một cuộc sụp đổ hệ thống ngân hàng và suy thoái kinh tế trầm trọng. Indonesia là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong khủng hoảng châu Á, GDP giảm đến 13,7% trong năm 1998.
Tương tự, tại Malaysia và Thái Lan, mặc dù mức độ thân hữu không cực đoan như Indonesia, nhưng vẫn có sự tập trung tài sản vào một vài tập đoàn lớn có quan hệ mật thiết với chính quyền. Ở Malaysia, việc ưu đăi cho các doanh nghiệp thuộc nhóm dân tộc Bumiputra đă tạo ra môi trường kinh tế thiếu hiệu quả, phụ thuộc chính trị, dẫn tới khả năng chống chịu của nền kinh tế bị suy yếu trong khủng hoảng. Ở Thái Lan, một số tập đoàn lớn phát triển nhờ tiếp cận vốn vay ngân hàng dễ dàng nhờ quan hệ với chính phủ. Khi bong bóng bất động sản vỡ năm 1997, các doanh nghiệp này vỡ nợ hàng loạt, khiến ngành ngân hàng gần như sụp đổ, đẩy đất nước vào suy thoái sâu.
Tại Mỹ Latinh, t́nh trạng tương tự diễn ra ở Brazil và Mexico. Tại Mexico, cuộc khủng hoảng đồng Peso năm 1994 bộc lộ rơ điểm yếu của nền kinh tế tập trung quá mức vào một số ít tập đoàn lớn. Một vài tài phiệt như Carlos Slim thâu tóm các công ty lớn thông qua tư nhân hóa, tạo ra độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến chi phí hoạt động kinh doanh tăng cao và giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khi khủng hoảng bùng nổ, chính phủ buộc phải cứu trợ các ngân hàng lớn, gây ra chi phí tài khóa khổng lồ.
Tại Brazil, giai đoạn 2014-2016 chứng kiến nền kinh tế nước này ch́m vào suy thoái tồi tệ nhất lịch sử hiện đại, với GDP giảm hơn 7% trong hai năm liên tiếp. Một trong những nguyên nhân là sự đổ vỡ của mô h́nh “national champions” – các tập đoàn lớn như Petrobras và Odebrecht vướng vào bê bối tham nhũng Lava Jato, gây mất ḷng tin toàn diện vào các định chế kinh tế lẫn chính trị. Những tập đoàn này trước đó đă nhận được nguồn vốn ưu đăi cực lớn từ nhà nước, nhưng lại sử dụng vốn kém hiệu quả, thậm chí hối lộ quan chức để duy tŕ đặc quyền (Reuters, 2017). Khi bê bối vỡ lở, giá trị cổ phiếu lao dốc, đầu tư nước ngoài giảm sút nghiêm trọng, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Điểm chung của các trường hợp này là việc ưu đăi và bảo hộ quá mức cho một vài doanh nghiệp thân hữu không chỉ làm suy yếu môi trường cạnh tranh, bóp méo thị trường, mà c̣n khiến nền kinh tế cực kỳ dễ tổn thương trước các cú sốc tài chính và kinh tế. Khi khủng hoảng xảy ra, cấu trúc kinh tế lệ thuộc vào thân hữu sẽ nhanh chóng sụp đổ, gây thiệt hại lớn cho cả nền kinh tế và xă hội.
Bài học và hàm ư chính sách cho Việt Nam
Các kinh nghiệm quốc tế nêu trên cung cấp nhiều bài học quan trọng cho Việt Nam khi triển khai chính sách công nghiệp mới theo Nghị quyết 68. Dưới đây là những khuyến nghị và hàm ư chính sách cụ thể mà Việt Nam có thể cân nhắc áp dụng:
1. Kết hợp hỗ trợ có chọn lọc với duy tŕ cạnh tranh
Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong các ngành chiến lược (về tín dụng, đất đai, nghiên cứu phát triển…), nhưng điều kiện tiên quyết là phải minh bạch, rơ ràng và dựa trên các tiêu chí khách quan. Cần tránh trao đặc quyền tuyệt đối cho một doanh nghiệp cụ thể. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy việc hỗ trợ cần gắn liền với các cam kết rơ ràng về hiệu quả, như chỉ tiêu về xuất khẩu hoặc đổi mới công nghệ. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được các tiêu chí này, phải chấm dứt hoặc giảm hỗ trợ kịp thời.
2. Tạo sân chơi b́nh đẳng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chính sách ưu đăi dành cho doanh nghiệp lớn phải đi kèm với việc xây dựng một hệ sinh thái hỗ trợ các DNNVV tham gia chuỗi giá trị. Đài Loan là ví dụ điển h́nh, nơi nhà nước đầu tư vào các vườn ươm công nghệ, trung tâm nghiên cứu giúp tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển mạnh mẽ. Việt Nam cần thúc đẩy các chương tŕnh kết nối chuỗi cung ứng giữa doanh nghiệp lớn và các DNNVV, đồng thời cải thiện khả năng tiếp cận vốn, đất đai, và thông tin thị trường cho các doanh nghiệp nhỏ hơn.
3. Minh bạch hóa và chống rent-seeking quyết liệt
Các thất bại từ Indonesia và Brazil minh chứng rơ rằng tư bản thân hữu và rent-seeking có thể làm sụp đổ chính sách công nghiệp đầy tham vọng. Việt Nam cần xây dựng các thiết chế giám sát độc lập, bảo đảm rằng ưu đăi được trao dựa trên năng lực và hiệu quả thực tế, chứ không dựa trên quan hệ thân hữu. Mọi ưu đăi đặc biệt (như miễn giảm thuế, tín dụng ưu đăi) cần được công khai minh bạch. Luật cạnh tranh và các cơ quan quản lư cạnh tranh cần tăng cường vai tṛ giám sát, ngăn chặn hành vi độc quyền và thao túng thị trường.
4. Nâng cao năng lực điều phối và vai tṛ nhà nước kiến tạo
Đông Bắc Á thành công nhờ xây dựng các bộ máy nhà nước có năng lực cao trong hoạch định và điều phối chính sách công nghiệp. Việt Nam cần có các đầu mối điều phối mạnh mẽ, liên kết hiệu quả giữa các bộ ngành liên quan như kế hoạch đầu tư, khoa học công nghệ, tài chính, và giáo dục đào tạo để thống nhất triển khai Nghị quyết 68. Có thể cân nhắc thành lập một ủy ban quốc gia chuyên trách về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Chính phủ.
5. Phát triển công nghiệp hóa bao trùm, bền vững
Chính sách công nghiệp mới không chỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, mà c̣n phải bảo đảm mọi tầng lớp xă hội được hưởng lợi từ sự phát triển. Nhà nước cần có các chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp tại các vùng kinh tế khó khăn, doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Đồng thời, khuyến khích và tạo động lực cho doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ thông qua các chương tŕnh hợp tác, chuyển giao công nghệ và đào tạo kỹ năng.
6. Điều chỉnh linh hoạt dựa trên kết quả thực tế
Chính sách công nghiệp không nên cứng nhắc. Cần áp dụng nguyên tắc “thử nghiệm – đánh giá – điều chỉnh”. Việt Nam cần thiết lập các cơ chế đánh giá hiệu quả chính sách một cách định kỳ (3-5 năm một lần). Nếu các chương tŕnh hỗ trợ doanh nghiệp hoặc ngành cụ thể không đạt được mục tiêu đă đặt ra, cần nhanh chóng điều chỉnh hoặc chấm dứt chương tŕnh đó để tránh lăng phí nguồn lực. Đây là bài học quan trọng rút ra từ những thất bại của Mỹ Latinh, nơi chính sách thiếu đánh giá kịp thời, dẫn đến kéo dài những ưu đăi sai lầm.
Kết luận
Để khu vực tư nhân thực sự trở thành động lực tăng trưởng, Việt Nam cần một chiến lược công nghiệp hóa cân bằng và linh hoạt. Nhà nước phải đóng vai tṛ kiến tạo thông minh, hỗ trợ có mục tiêu nhưng không thiên vị hoặc chiều chuộng vô điều kiện bất kỳ doanh nghiệp nào. Việc bảo đảm sân chơi b́nh đẳng, cạnh tranh lành mạnh, minh bạch và chống rent-seeking là ch́a khóa thành công. Thay v́ chỉ tập trung nuôi dưỡng vài doanh nghiệp lớn, Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái kinh tế đa dạng, bền vững, trong đó doanh nghiệp lớn và nhỏ đều có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.