Áo dài Việt Nam có từ bao giờ? Theo nhiều nguồn sử liệu cho biết chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ra đời vào năm 1744, bởi một mệnh lệnh hành chính của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát.
Tôi có cô bạn người Pháp, Monique Alia, rất yêu quý đất nước và văn hóa Việt Nam. Festival Huế tôi mời cô sang Huế chơi. Ngay khi đến Huế, Monique nói là muốn có một bộ áo dài Huế để mặc trong những ngày rong ruổi dự Festival Huế.
Hai người phụ nữ trong trang phục áo dài truyền thống. Ảnh: Émile Gsell.
Tôi đưa Monique đến Chi, hiệu may áo dài nổi tiếng ở đường Mai Thúc Loan bên trong thành Nội. Trong khi chọn vải, bất chợt Monique hỏi tôi: "Áo dài Việt Nam có tự bao giờ? Anh có thể kể cho tôi nghe về lịch sử chiếc áo dài được không?".
Sau một thời gian sưu tra tài liệu và phỏng vấn nhiều chứng nhân của áo dài, tôi muốn trả lời Monique Alia bằng những trang viết này.
Nhiều nguồn sử liệu Việt Nam cho biết chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ra đời vào năm 1744, bởi một mệnh lệnh hành chính của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, người đang trấn trị xứ Đàng Trong lúc đó. Vì muốn thể hiện độc lập tuyệt đối với chính quyền Đàng Ngoài sau gần 200 năm ly khai, nên Võ vương muốn cải biên phong hóa, trang phục của Đàng Trong cho khác với Đàng Ngoài.
Bấy giờ, phụ nữ Đại Việt từ Bắc chí Nam đều mặc váy với áo tứ thân, đầu vấn khăn bọc tóc. Đàng Trong tuy là đất mở cõi ở phương Nam của chúa Nguyễn, nhưng dân cư có gốc gác từ Đàng Ngoài, nên phong hóa cũng không khác Đàng Ngoài là mấy. Để phân biệt với Đàng Ngoài, Võ vương bắt buộc phụ nữ Đàng Trong phải mặc quần hai ống cho dù dân chúng phản đối quyết liệt.
Về sau, thấy phụ nữ mặc quần hai ống không được kín đáo cho lắm, Võ Vương giao cho triều thần tham khảo áo dài của phụ nữ Trung Hoa, kết hợp với chiếc áo dài bít tà của phụ nữ Champa để chế ra chiếc áo dài dùng cho phụ nữ Đàng Trong. Chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ra đời từ đó.
Sách Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, phần "Tiền biên" viết về các đời chúa Nguyễn, có chép sắc dụ này: "Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn, ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép".
Sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776, chép: "Năm Giáp tí niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), Hiểu Quốc công Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu. Áo mão chế theo sách 'Tam tài đồ hội' (...), bắt con trai Huế - triều Nguyễn. Con gái hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam phải đổi cách ăn mặc, dùng áo quần như người Trung Hoa, cốt tỏ cho thấy sự thay đổi hẳn lề lối ăn mặc của người xưa. Đàn bà con gái hai xứ phải mặc áo ngắn, chật ống tay như áo của đàn ông".
Sử liệu ghi như vậy, nhưng thực tế thì vào năm 1956, khi khai quật ba ngôi mộ ở cánh đồng Bà Chúa (Thanh Hóa), các nhà khảo cổ đã phát hiện thi hài hai phụ nữ thời Lê - Trịnh còn nguyên vẹn, đều mặc áo dài năm thân may bằng gấm màu cổ đồng, khá gần gũi với áo dài tân thời sau này.
Như vậy có thể thấy rằng trước thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, ở Đàng Ngoài cũng đã có áo dài rồi. Nhưng đó không phải là chiếc áo dài như vẫn thấy sau này. Phải chăng đã có một sự lan tỏa ngược ra Bắc của chiếc áo dài hai tà của Đàng Trong, rồi kết hợp với chiếc áo năm thân của Đàng Ngoài để khai sinh nên chiếc áo dài Việt Nam sau này?
Sang thời Nguyễn (1802-1945), vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826), nhà vua xuống dụ: "Nhà nước ta bờ cõi hợp nhất, văn hóa cùng nhau, há nên có việc làm và quy chế khác… Nay thấy Nam Bắc một nhà, cùng chung phong hóa tập quán, duy về khoản áo mặc của sĩ dân ở các thành, hạt vẫn còn khác nhau. Vậy thiết tha xuống lời dụ này: Các đại thần nên sức cho thần dân trong hạt, phàm cách thức áo mặc đổi theo cách thức như Quảng Bình trở vào Nam, chuẩn cho đến cuối mùa xuân năm Minh Mạng thứ 10, nhất tề sửa đổi lại, để nêu ý nghĩa vâng theo phép vua" (Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nội các triều Nguyễn biên soạn).
Lệnh trên của vua Minh Mạng khiến dân tình xôn xao, phản ứng bằng bốn câu ca: "Tháng Tám có chiếu vua ra. Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng. Không đi thì chợ không đông. Đi thì bóc lột quần chồng sao đang?". Nhưng dù sao thì việc "cấm váy" của vua Minh Mạng đã tạo cơ hội cho phụ nữ Việt Nam được mặc áo dài. Từ đó mà áo dài lan tỏa khắp cả nước.
Trong thời kỳ đầu, áo dài của phụ nữ Việt Nam là chiếc áo "tứ thân", phía trước và phía sau đều có hai vạt như nhau, "đấu sống" ở chính giữa. Sở dĩ như thế là do khổ vải thời ấy chỉ hẹp khoảng 40-50 cm. Thân áo nối với tay áo ở đoạn giữa vai và khuỷu tay; ống tay rất dài và hẹp; cổ áo độn cứng, cao khoảng 2-3 cm. Thân áo dài vừa phải, quá gối chừng 25-30 cm.
Áo dài của các hoàng hậu, công chúa, của các mệnh phụ, thiếu nữ quý tộc thường may bằng sa, lĩnh, gấm, vóc, thêu hình chim phượng, chim loan; vạt dưới thêu văn thủy ba, hoa lá, tản vân bằng chỉ kim tuyến.
Áo thường dân cũng thể theo kiểu ấy, nhưng dùng vải kém hơn và không có hoa văn trang trí. Bấy giờ phụ nữ Kinh kỳ mặc áo dài cùng quần hai ống may bằng sa trắng, cổ đeo kiềng vàng, chân đi hài nhung hoặc guốc Kinh. Phụ nữ thị thành miền Bắc mặc áo dài năm thân, tóc quấn vào khăn vấn quanh đầu, cổ đeo chuỗi hạt, chân đi hài cỏ. Trong khi đó, phụ nữ nông thôn vẫn gắn bó với váy yếm, áo tứ thân, nón quai thao trong các dịp lễ lượt, hội hè.
VietBF@ sưu tập