Muốn vậy th́ phải trung tính hóa các từ ngữ phân biệt giới tính như “nam, nữ” hay “vợ chồng”. Theo đó, cần sửa Điều 39.1 thành “Công dân có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, b́nh đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa hai người”. Có như thế mới tránh được thực trạng nhiều cặp đồng tính sống chung với nhau nhưng pháp luật chỉ xem họ như những người xa lạ, không được thừa kế (theo pháp luật), không thể đại diện cho nhau (tài sản hoặc nhân thân, đau ốm)…
Viện Nghiên cứu Xă hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) vừa tổ chức hội thảo tham vấn lấy ư kiến nhóm chuyên gia người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) góp ư cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Một trong những nội dung được nhóm này quan tâm là Điều 39 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định về quyền kết hôn, ly hôn.
 |
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa. |
Theo Điều 39 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung Điều 64 Hiến pháp năm 1992): “1. Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng b́nh đẳng, tôn trọng lẫn nhau; 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đ́nh, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”.
Nhóm chuyên gia LGBT cho rằng, cụm từ “nam, nữ” đă loại trừ những người liên giới tính được quyền kết hôn. Không phải người liên giới tính nào cũng muốn xác định giới tính ḿnh thành nam hoặc nữ, chưa kể hiện tại thủ tục thay đổi giấy tờ của họ c̣n rất nhiều khó khăn.
Điển h́nh là trường hợp của cô giáo Quỳnh Trâm (tức anh Phạm Văn Hiệp) bị xét thu hồi giấy tờ mới, trả về giấy tờ nam giới dù cơ thể đă là nữ giới. Bên cạnh đó, việc quy định nguyên tắc “một vợ, một chồng” sẽ là cánh cửa đóng cho hôn nhân cùng giới, không đảm bảo được quyền mưu cầu hạnh phúc chính đáng của người đồng tính.
Muốn vậy th́ phải trung tính hóa các từ ngữ phân biệt giới tính như “nam, nữ” hay “vợ chồng”. Theo đó, cần sửa Điều 39.1 thành “Công dân có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, b́nh đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa hai người”. Có như thế mới tránh được thực trạng nhiều cặp đồng tính sống chung với nhau nhưng pháp luật chỉ xem họ như những người xa lạ, không được thừa kế (theo pháp luật), không thể đại diện cho nhau (tài sản hoặc nhân thân, đau ốm)…
Đại diện Trung tâm Hành động v́ quyền của LGBT (ICS) nhấn mạnh: Đứng từ góc độ quyền con người th́ rơ ràng người đồng tính có quyền mưu cầu hạnh phúc, từ đó mà họ cũng có quyền tạo lập mối quan hệ với nhau. Cụ thể hóa của việc tạo lập mối quan hệ đó chính là kết hôn hoặc các chế định tương tự. Với quy định hiện tại như Dự thảo Hiến pháp, liệu có thể giải thích nguyên tắc “một vợ, một chồng” là hôn nhân là giữa một nữ và một nam hay một người chỉ được có một vợ hoặc một chồng.
Nếu hiểu theo cách thứ hai th́ người đồng tính nam cũng có quyền có cho ḿnh một người chồng, cũng như người đồng tính nữ cũng có thể có một người vợ. Tuy nhiên, dù với cách hiểu nào th́ Hiến pháp cũng nên trung tính hóa các từ ngữ phân biệt về giới tính. “Ở pháp luật nhiều quốc gia (cả các quốc gia chưa và đă hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới) thường dùng từ “phối ngẫu” hay “bên” (spouse/party) để tránh phân biệt giới tính như “vợ/chồng” (husband/wife)” – vị đại diện này dẫn chứng.
Sơn Hà