Tuyệt mật rùng rợn đằng sau việc V+ thay tên "Bến" thành "Ga Tàu Thuỷ" Bạch Đằng
Mấy ngày qua mạng xã hội sôi sùng sục vì hình ảnh biển hiệu trái tai gai mắt “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng”. Sài Gòn có biết bao nhiêu cái Bến: Bến Nghé, Bến Hàm Tử, Bến Chương Dương, Bến Vượt (Củ Chi), nhưng quan trọng nhất là Bến Nhà Rồng…
Riêng Bến Bạch Đằng ở Sài Gòn đã thành đia danh quen thuộc, cảnh quan đặc trưng. Hơn thế nữa, nơi đây có tượng đức Trần Hưng Đạo uy nghi, từng bị dời lư hương gây xáo động lòng người nên càng thêm nhạy cảm. Bến Bạch Đằng của Sài Gòn không phải là cái tên vô cảm mà nó mang hơi thở của lịch sử, tâm thức giữ nước của cha ông truyền lại.
Đổi Bến thành Ga Tàu Thuỷ là nhằm mục đích xoá lịch sử huy hoàng thời VNCH, chà đạp và bắt người miền Nam tiếp tục làm nô lệ trong chế độ gông cùm CS hiện nay.
“Bến Bạch Đằng” không chỉ là một trạm tàu, mà còn là cái tên tồn tại kéo dài đã lâu, thẩm thấu văn hóa, ký ức địa phương.
Thử điểm qua ba bộ từ điển tiếng việt của Lê Văn Đức (LVD) ở Miền Nam trước 1975, Từ điển Hoàng Phê bản in 2003 (HP) và Từ Điển Bách Khoa của Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam (VHL) với hai mục từ Bến và Ga ta sẽ thấy kết quả hải hùng.
Với mục từ Bến,
LVD giải thích có ba nghĩa: Nơi tàu, thuyền xe đậu để đưa rước hành khách và chất hàng. LVD còn dẫn thêm những từ ghép như bến xe, bến thuyền, bến mê…
HP giải nghĩa từ Bến:
1- Chỗ bờ sông thường có bậc lên xuống để lấy nước.
2- Nơi quy định cho tàu thuyền xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống bốc dở hàng hóa. Bến đò ngang. Tàu cập bến. Bến ô tô.
HP cũng dẫn thêm nhiều từ ghép bến bờ, bến lội, bến nước, bến tàu…
VHL không có mục từ "Bến độc lập" mà chỉ có một số từ ghép như Bến Phà, Bến tàu, Bến Vượt và một số danh từ riêng như Bến Tre, Bến Thủ.
Với mục từ Ga:
LVD giải thích có ba nghĩa
1- Hơi tống máy chạy. Đạp ga, nhả ga, bờt ga, thả ga (gaz)
2- Vải thưa được hấp khử trùng dùng băng bó (gaze)
3- Trạm xe lửa nơi hành khách lên xuống (gare)
HP có hai mục từ Ga:
Ga là công trình kiến trúc làm nơi hành khách lên xuống hoặc bốc xếp dở hàng hóa ở những nơi quy định dành cho xe lửa, xe điện, máy bay đỗ trên đường bay đường đi. Ga xe lửa, hành khách vào ga sân bay.
2- Khoảng cách giữa hai xe lửa, xe điện kế tiếp nhau. Tàu đã đi được hai ga.
Mục từ Ga khác, HP giải thích về khí ga chất đốt và khí ga để uống.
VHL giải thích mục từ Ga rất bác học, chi tiết và quan trọng là đã mở rộng chức năng. Công trình kiến trúc nằm trong hệ thống giao thông (sắt, thủy, bộ, hàng không)….. Tùy theo phương tiện giao thông mà có ga đường sắt, ga hàng không.
So sánh ba từ điển trên, tuy có khác nhau về địa lý về thời gian chênh nhau gần nửa thế kỷ nhưng LVD và HP có điểm chung xác định Bến gắn với nước, Bến là nơi đón hành khách hàng hóa đường thủy và bộ. Ga là nơi đón khách của đường sắt.
Trước phản ứng của dư luận, ông Nguyễn Kim Toản - Giám đốc Công ty TNHH Thường Nhật (chủ đầu tư tuyến buýt sông số 1) – thông báo rằng công ty sẽ thực hiện điều chỉnh, thay đổi bảng hiệu "ga tàu thủy" thành "bến tàu" tại các bến đón, trả khách của tuyến buýt sông số 1.
Hiện nay, cụm “ga tàu thủy” cũng đã được tháo đi, để chuẩn bị cho việc sửa đổi, dự kiến 1-2 ngày nữa sẽ hoàn thành.
Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam (VHL) không xác định được mục từ Bến và mở rộng từ Ga thêm chức năng đón khách đường bộ và đường thủy mặc dù thực tế này chưa từng xảy ra ở Việt Nam. VHL cũng không đưa ra dẫn chứng nào. Đọc VHL người ta có cảm giác mục từ Ga được dịch từ sách vở nước ngoài thành tiếng Việt chứ không phải giải nghĩa từ tiếng Việt, của đời sống người Việt.
Hóa ra tác giả của cụm từ Ga Tàu Thủy phản cảm, tréo miệng, chói tai người Việt không chỉ là những quan chức chân vịt bánh xe mà còn có những viện sĩ của cái Viện lẫy lừng là lò ấp mỗi năm hàng ngàn tiến sĩ. Hơn ai hết, chính họ đã dùng hàng ngàn tỉ đồng ngân sách đầu tư nghiên cứu để tù mù hóa, rối rắm hóa sự trong sáng của tiếng Việt.
Cũng tại...vì...thì...là. ..mà...dân trong nước bây giờ trình độ kém cỏi.Không hiểu được ẩn ý cao siêu của những cái đầu...(...) thông thái nhà nước VC.
...Ý nà...nếu người dân có việc phải di chuyển xa bằng tàu thủy,xe lửa...thì...nhớ mang ,xách theo tấm..."GA"...(khăn trải giường...Dân BK gọi nà..."Ga" )...để ngủ và giữ ấm trong những lúc chờ đợi ... "khắc phục"...Đó là..."nhà nước no" cho sự "tiện nghi" của hành khách...đã không biết ơn chế độ mà cứ xỉa xói...rõ chán...Tại sao cứ muốn gọi nà "bến"...bộ muốn chúng ông đì bọn mày ..." tới bến"...mới vừa lòng ?????...:haf ppy:
The Following 4 Users Say Thank You to congluan For This Useful Post:
Một chính phủ thất học thì chỉ nghĩ được đến thế thôi, quầy chất đốt thanh niên, dân quân gái, xưởng đẻ, giặc lái, một thời làm dân miền nam cười vỡ bụng với lý do là đổi vậy để không bị lệ thuộc vào từ hán Việt. Nay cái từ "BẾN" nghe rất là bình dân của người miền nam thì lại đổi lại là GA TẦU THỦY có chữ THỦY là từ hán Việt thì không biết CÁC ĐỒNG CHÍ THẤT HỌC ẤY NÍ NUẬN THẾ LÀO ?
Chính phủ thì diễn hài, còn mấy thằng hề, đĩ điếm thì lên mặt dạy đời, nói chữ. Xã hội VN giờ quá zui luôn.
The Following 4 Users Say Thank You to bs098 For This Useful Post:
Nội nhìn tên là biết sản phẫm văn hoá của bầy đàn BK2N rồi .
lúc nào cũng muốn lệ thuộc hiện tuợng đọc trại phát âm từ tiếng Pháp (gare) xào nấu xà bần với Hán Từ "Thuỷ" .
Những từ ngữ có tính chất Pháp & Chệt đề huề chỉ có thể xuất xứ từ cái thứ "nón cối trong Bưng" ra mà thôi ....làm nhớ lại mang máng đâu đó huyền thoại "Lính thuỷ đánh bộ" .
The Following 2 Users Say Thank You to HonThienViet For This Useful Post:
Tụi V+ ngu ở chổ nào ?
Ngu ở chổ là tụi nó lấy tên nguời thế vào tên của một thành phố.
Tụi trẻ trâu thường hay nói mí nhau : "Ê bây, có đi chơi đĩ X, Y, Z.. chưa vậy ? " (X,Y,Z thuờng là tên một đia danh hay thành phố tỉnh lỵ chẳng hạn như Hanoi , Huế , Cân Thơ...vv)
Ở hải ngoại bọn trẻ trâu hay to nhỏ: "Ê mạy, có đi chơi đĩ hồ chí minh chưa mạy ? "
De facto nhé:
Luơng tâm tụi chính quy VC biết bị hố nặng cái vụ này nên hoảng hồn hoảng vía mới để nguyên si cái tên THẢO CẦM VIÊN SÀIGÒN.
Nào dám đổi lại thành "THẢO CẦM VIÊN Hồ chi minh" đâu nè !
Nếu đổi, chả lẽ coi hcm là một loại thú gì đó để thiên hạ đi "Sở Thú" coi chơi sao ?
Last edited by HonThienViet; 03-01-2024 at 16:35.
The Following 3 Users Say Thank You to HonThienViet For This Useful Post:
Theo tôi, thì do con châu chấu nó xếp đặt, không có ai làm mất nước, cũng không có ai thắng cuộc. Con châu chấu nó cần nô lệ, nó trao cờ cho bên CS phất. "Ví dầu châu chấu chóng xe , tưởng rằng chấu ngã không ngờ xe lăn", “Nực cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng” tôi quên tác giả.
The Following 2 Users Say Thank You to hoaibao For This Useful Post:
Hahaha... Hèn mạt thấy con đĩ mẹ 3Quặp chúng nó... Trốn dưới cống Cali rãnh Texas, vv... cũng gần 50 năm ăn kứt thì lấy cái đéo gì mà "dẹp" được ai, ngoài việc "sủa".... Dám đụng cái lông chân tụi VC sao.... Thằng Hùng gì gì đó mặc áo cờ VC nghênh ngang Little Saigon còn cùng nhau kéo cả đám ra phủ phục lạy lục nó nữa kìa.... Mẹ kiếp........
Trong “team” các cụ đi tập thể dục hàng ngày có cụ Phú tuổi cao nhất, sang năm giáp Thìn 2024 cụ tròn 87 tuổi.
Ngày 5 Tết các cụ khai xuân tập trung hết ở nhà ông Minh.
Cụ Phú được mọi người chúc Tết trước tiên, cụ xúc động phát biểu:
- Cảm ơn các ông đã chúc tôi sống lâu, tôi cũng mong được như thế, đến năm 2030 kỷ niệm 100 năm ngày thành lập đảng may ra còn sống để hưởng cái công nghiệp hoá và nhất là cái thu nhập trung bình cao.
Chứ đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước không có hi vọng gì.
Nhưng tôi nói thật, sắp xuống lỗ rồi mà phải nghe cái điều không tưởng ấy nó là một cực hình.
Sống lâu, sống khỏe ai không muốn, nhưng xem ra giữa mong muốn và hiện thực nó không ăn nhập với nhau.
Cứ tình trạng ô nhiễm đủ thứ từ môi trường không khí, môi trường nước, thực phẩm, ánh sáng, tiếng ồn, rồi cả môi trường xã hội loạn lạc đến năm 2030 chắc khó còn sống.
Tôi nghe nói, họ kiên định và quán triệt nhiều thứ lắm, mục đích là ép người ta tin tưởng vào các mục tiêu đề ra.
Thực ra là họ bế tắc, dẫn dắt dân tộc mà không có mục tiêu thì ai người ta nghe, nhưng càng làm càng đuối, càng thấy nó viển vông, mơ hồ cho nên phải lên gân, lên dây cót cho nhau.
Sự lú lẫn chính là ở chỗ mình lú lẫn mà vẫn tưởng mình còn tinh tường, như thằng say luôn nghĩ mình tỉnh, thằng dốt hay nói chữ.
Nói đâu xa, lấy Hà Nội làm ví dụ.
Tôi nghĩ, trong tương lai gần Hà Nội là một thành phố muốn sống được chỉ có cách đập đi san phẳng một phần tư diện tích, và giảm dân số đi một 1/3 may ra mới đạt được các quy chuẩn của một đô thị như họ đặt ra.
Tại sao phải như thế?
Một đô thị thời nay trên hai triệu dân thế giới người ta đã đặt điều kiện phải có đường tàu điện ngầm (Metro), Hà Nội trên 10 triệu dân làm 13 năm không xong một tuyến, và nguy cơ các tuyến khác theo quy hoạch không những chậm mà có thể không thực hiện được đã hiển hiện ra trước mắt.
Họ nói ra nhiều nguyên nhân, nguyên nhân nào cũng có giải pháp tháo gỡ, nhưng vấn đề cái giá phải trả như thế nào?
Trong quá trình phát triển Hà Nội, nhìn thoáng qua bên trên nó có dáng dấp một đô thị hiện đại, họ tự hào cho rằng là kết quả của đổi mới, của sự lãnh đạo tài tình.
Thực chất đó là hậu quả tai hại của làm ăn chộp giật, chỗ nào ngon chén trước, tuỳ tiện sửa đổi quy hoạch để biến thành đất vàng.
Những cao ốc, trung tâm thương mại, chung cư mọc lên phá nát quy hoạch, nằm dưới nó là những cọc khoan nhồi sâu mấy chục mét, và hệ thống hạ tầng kỹ thuật như những chướng ngại vật giăng ra dưới lòng đất.
Tuyến Metro số 1 Nhổn - Ga Hà Nội hiện có 3000 hộ dân trong vùng ảnh hưởng do phương pháp thi công của Robot khổng lồ chưa đưa ra được biện pháp xử lý và trị giá đền bù, di chuyển.
Hàng chục ngôi nhà có cọc, tuyến ngầm đi qua phải dừng thi công xử lý, chưa kể đến hệ thống cáp điện, cáp viễn thông, đường nước sinh hoạt, nước thải nằm loạn không biết chỗ nào mà lần.
Mới có một tuyến ngầm đã không thể tháo gỡ được, vậy kế hoạch cho tầm nhìn năm này năm nọ cho ngầm hoá giao thông Hà Nội có vài trăm nữa cũng bế tắc.
Không có giao thông ngầm, ô tô xe máy vẫn bán ầm ầm để thu thuế cho ngân sách.
Dân nhập cư vẫn nhảy vào.
Bệnh viện, trường đại học, trụ sở công ì ạch không di dời ra khỏi nội đô, hỏi ách tắc giao thông, ô nhiễm giải quyết như thế nào?
Nhân tiện liên quan đến hệ thống cọc của Hà Nội, tôi nghe nói hệ thống cọc của sân bay Quốc tế Long Thành đã đóng khiến cho nguy cơ nhà ga số 1 đang thi công sẽ không kết nối giao thông ngầm với nhà ga số 2 và số 3 trong tương lai.
Làm chán chê giờ mới phát hiện ra, hò nhau đẩy tiến độ, mục đích cũng chỉ để giải ngân, bất chấp các bước triển khai theo quy định.
Cái bệnh ăn xổi, nhiệm kỳ nào cũng vội vơ vét ngồi đấy mà mơ năm này năm nọ có thu nhập cao, là nước phát triển chỉ hão, loè bịp nhân dân.
Kiên định này nọ toàn là láo toét, nói không ngượng mồm, chỉ có kiên định giấc mơ là có hiện thực.
Thời gian thấm thoát trôi đi, thằng Cối đã bước sang năm thứ ba đại học.
Vốn có tư chất của gia đình truyền thống “đèn sách” nó học nhàn nhã, nhưng điều nó khó hiểu nhất là tại sao học chuyên ngành Tự Động hoá - Một ngành thuộc khối kỹ thuật phải nhồi nhét đến 5 môn về Lý luận chính trị, bao gồm:
Triết học Mác-Lênin: 3 tín chỉ
Kinh tế chính trị Mác-Lênin: 2 tín chỉ
Chủ nghĩa xã hội khoa học: 2 tín chỉ
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: 2 tín chỉ
Tư tưởng Hồ Chí Minh: 2 tín chỉ
Cộng lại là 11 tín chỉ trong tổng số khoảng 30 tín chỉ trong 5 năm học, tính theo thời gian cũng chiếm đến 20- 30% tương đương với 1,5 năm học, chưa kể đến thời gian các sinh hoạt đoàn, ngoại khoá, học quân sự…
Thằng Cối nhẩm tính thời gian thực học cho chuyên môn chỉ còn lại khoảng 2,5 năm, trong khi các sinh viên nước ngoài thuộc khối kỹ sư họ học 5 năm nhưng không phải học các môn quân sự, lý luận chính trị…
Hỏi tại sao kỹ sư của họ giỏi, đất nước người ta phát triển cũng bằng thừa.
Chưa kể đến mỗi tín chỉ phải đóng gần một triệu đồng, bố mẹ ở quê lại è cổ mất gần chục triệu cho con đi học để mua kiến thức vô nghĩa, tiền thật bỏ ra mua được kiến thức rởm.
Mấy ông chủ xứ Kim Chi, xứ Mặt trời mọc... họ nói không oan "kỹ sư chúng mày tuyển làm công nhân cũng phải đào tạo lại"
Thằng Cối đem chuyện này ra tâm sự với thằng Chầy.
Thằng Chầy nghe thằng Cối nói chuyện, nó nghĩ thằng em nó tư duy hơn mình, không vô lý ông nội hay khen nó, bảo nó có tư chất của người làm khoa học.
Thằng Chầy nói với thằng Cối:
- Ở Việt Nam mày theo lối suy nghĩ "phản động" như thế thì chẳng mấy chốc họ biến thành thằng dở hơi em ạ.
Tư duy của chế độ ta tư tưởng là thống soái, tư tưởng có thông suốt mới dễ thống nhất, dễ định hướng như đàn bò được rèn luyện cứ sáng ra theo chiếc gậy ra bãi cỏ, chiều đến theo chiếc gậy về chuồng, không con nào dám tách ra khỏi đàn, không con nào được đi lệch hướng.
Mày có thấy sách lý luận chính trị quanh quẩn cũng chỉ đi đến mục đích ấy không?
Mấy cái môn lý luận chính trị ấy, anh mày đi làm được mấy năm chẳng thấy nó phục vụ giúp ích cho chuyên môn, cho quản lý nhưng đấy là bùa hộ mệnh.
Cái lá bùa của các thầy mo, thầy cúng ai mà biết nó thực hư thế nào nhưng thầy bảo đeo vào sẽ có may mắn, trừ tà, trừ ma, trừ quỷ thì cứ thế đeo vào - U mê mới dễ dắt mũi .
Khi mày muốn thăng quan tiến chức mà không có cái bùa của Lý luận chính trị đeo trên người là đi đứt, bị loại từ vòng gửi xe.
Mấy thằng đi học ở nước ngoài về không có cái bùa này thì cũng chẳng bằng mấy thằng học phọt phẹt trong nước, lúc họ xếp ngồi vào mâm mà thiếu cái bùa lý luận chính trị là xin mời ra khỏi chiếu.
Cho nên học mấy cái lý luận chính trị này nhiều khi như vịt nghe sấm, như đấm vào tai, như phải nhai rơm cũng cố mà nuốt.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Thằng bạn ở Thuỵ Sĩ về chơi Việt Nam, trên đường tới Hội An, ghé quán càphê ven đường “Cho ly càphê đá Sài Gòn”.
Càphê mang ra, chưa nếm, y đã lắc đầu, “Không phải. Càphê là càphê kiểu Sài Gòn, có biết không?”
“Dạ, dạ… biết”.
Dân miền Trung nhẫn nại. Cái gì cũng biết (trừ những cái không biết).
Ly càphê khác mang ra. Cũng không phải!
Tôi sống ở cái đất Sài Gòn này gần mãn kiếp, mấy tiếng càphê Sài Gòn đã nhạt nhoà từ thuở tám hoánh. Nay, nghe một khứa Tây da vàng, biệt xứ 40 năm (xẹt đi xẹt lại Việt Nam giỏi lắm là vài ba lần) dõng dạc: “càphê kiểu Sài Gòn”. Thấy sốc!
Tôi không nhớ mình đã uống càphê từ lúc nào. Chắc từ thuở biết bưng bê, uống vụng càphê của các bậc bề trên hơi nhiều. Nhưng chỉ thèm càphê khi thấy mấy ông khách ở tiệm càphê các chú (Tàu) đổ càphê sữa vào dĩa, chấm bánh tiêu. Thèm càphê hay bánh tiêu? Tôi không biết, có thể cả hai.
Nhưng vị đắng càphê bắt đầu biết nếm từ lúc nào thì tôi biết chắc. Đó là những tháng ngày của năm 1972, khi bè bạn bỗng chốc xếp bút nghiên ra đi. Thằng về, thằng đi… luôn. Đóng đô ở quán càphê nhiều hơn lớp học. Càphê có đường hay không đường đều đắng như nhau. Vị đắng quá dư để nhận lời uỷ thác, mày đưa thư này cho em… giùm tao, mà đợi tao đi rồi hãy đưa. Chết thiệt sắp tới nơi rồi, không ngán, mà lòng vẫn còn “chết nhát” vì mái tóc dài. Thua xa bọn trẻ @ thời nay.
Cô chủ quán không biết pha kiểu gì, pha vớ, chứ không phải pha phin, mà ly càphê sữa đá 80 đồng ngon không thể tả. Sau này nếm thử Starbucks, Maxell House, Green Mountain… cũng không thể bằng. Sức mạnh của dĩ vãng nặng oằn vai.
Càphê ngon nhất Sài Gòn, theo cái lưỡi tôi, ở góc số 4 Duy Tân. Chỉ là quán vỉa hè, không bảng hiệu, mà tụi tôi gọi là càphê lá me, mà hình như ở đó chẳng có cây me nào thì phải. Hồi đó tôi học ở đại học Khoa học, mà mấy bà bên Khoa học, nói phải tội, khô khan và nặng vía. Tôi phải vượt qua càphê Năm Dưỡng gần trường, đến ngồi đồng ở càphê lá me, chiều chiều ngắm mấy cô Luật khoa, Văn khoa tha thướt. Trời ơi, nắng Sài Gòn mát rượi chứ không “chợt mát” như thi sĩ Nguyên Sa vã mồ hôi làm bài thơ Áo lụa đâu.
Quẹo trái chừng vài trăm mét là đường Cường Để, con đường đẹp nhất Sài Gòn, hai bên đường là những biệt thự lâu đời, chủng viện, tu viện cổ kính với hàng cây cổ thụ cả trăm tuổi… Lá đổ muôn chiều là con đường này, chẳng cần đợi tới mùa thu. Bây giờ nơi đây là nhà cao tầng, khu thương mại, ồn ào náo nhiệt, đi quờ quạng kẹt xe. Cả trăm cây cổ thụ bị đốn trên con đường vài trăm mét thì đâu còn gì để nói thêm nữa. Mất hết…
Cảnh đẹp, người đẹp, càphê không ngon sao được. Mà càphê lá me ngon thiệt, chứ không phải tôi mù quáng cái đẹp nói bừa.
Luận về càphê ngon dở hơi bị khó, mỗi người mỗi gu, chân lý đa dạng. Nhưng càphê Sài Gòn chắc là luận được. Từ luận được cho đến hết luận… nổi. Người ta cứ đồn càphê Sài Gòn độn bắp, độn cau, rượu đế, mắm muối… toàn là mấy thứ dân dã. Có lửa, có khói. Lời đồn này đúng. Càphê Tây cũng đâu phải nguyên chất, họ độn, nhưng độn thứ khác. Thích nghi văn hoá mà!
Càphê Sài Gòn không độn bắp rang làm sao có độ sánh, càphê đá mà lỏng le coi sao được. Càphê không thêm cau rang làm sao đủ đắng mà ngẫm chuyện đời. Càphê đá làm gì có chuyện hương thơm thoang thoảng nếu không tẩm chút rượu. Rồi cũng phải mắm muối chút đỉnh cho đậm đà… Những thứ lằng nhằng này coi như là… phụ gia, chứ “chính gia” vẫn phải là càphê rang sao cho tới tới… Bí quyết ngon dở là ở chỗ đó.
Rồi theo thời thế, mọi thứ đổi đời. Phụ gia trở thành chính gia, chính gia thành phụ gia. Đổi đời thêm cú nữa, càphê biến luôn, chỉ còn đậu nành và hoá chất.
Muốn đắng có ký ninh, hạt mắt rồng, dexamethasone. Muốn sánh có a dao gelatin. Muốn đen có nước màu caramel.
Hương càphê thì vô vàn nhớ không hết.
Muốn bọt? Đã có lauryl sulfate (tạo bọt xà phòng). Làm gì còn “càphê kiểu Sài Gòn” hở thằng bạn Tây da vàng kia, thèm lauryl sulfate hay sao mà ngồi đó làu bàu.
Thiệt ra, càphê Sài Gòn vẫn còn, vẫn có vẻ đẹp của riêng nó – vẻ đẹp của ký ức.
Càphê lề đường làm gì có âm nhạc, chỉ có âm thanh đường phố, tiếng rao hàng, tiếng còi xe, và cái “mát rượi” riêng tư. Càphê nghe nhạc phải vào quán đèn mờ, máy Akai băng cối, những bản tình ca diễm lệ, tiếng hát cao sang Lệ Thu, Khánh Ly…
Thời cuộc hơn, thì nghe ca khúc da vàng, đại bác ru đêm, người chết hai lần… Bè bạn về phép (có khi chúng liều mạng “nhảy dù” cũng không chừng) lại kéo nhau ra quán nhậu. Nhậu đã rồi tới quán càphê Chiêu trên đường Cao Thắng. Ở quán nhậu thì tranh nhau nói, tới quán càphê, chẳng thằng nào buồn nói. Càphê và khói thuốc. Càphê nhỏ giọt. Giọt có buồn không? Mờ quá không thấy giọt, nhưng nỗi buồn thì thấy.
Dạo sau này tôi đổ đốn khoái nhạc sến, từ khoái tới mê chỉ là gang tấc. Giác ngộ tiệm tiến qua nhiều ngõ khác nhau. Một trong những ngõ đó là nhạc kẹo kéo. Xe kẹo kéo chiều chiều đẩy ngang nhà, mở to những bản nhạc sến một thời. Chưa hát nhạc sến bao giờ, mà sao trong đầu lại hát theo. Thời gian chưa đủ nghe hết bản nhạc thì tiếng hát đã xa dần, và cái đầu lại lẩm bẩm hát tiếp, thuộc lời nhạc sến từ thuở nào chẳng hay. Cù cưa với ký ức kiểu này thì con đường tới bến giác mê cũng chẳng bao xa.
Một ngõ giác ngộ khác, khi tiếng lòng lời ca bỗng nhiên gặp nhau. Cách nay 7 – 8 năm gì đó, tôi ra Hà Nội có chuyện, nhân tiện ghé quê ngoại. Mẹ tôi bệnh nằm một chỗ, hớn hở dặn dò, con về phải ghé người này trước, thăm người nọ sau, nói mẹ biếu người này cái này, người kia cái kia… Quê mẹ tôi ở làng Chử Xá, mảnh đất của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Nửa tiên nửa tục, nên có máu lãng tử, nhảy cóc qua đời mẹ tôi, tới tôi thành gen trội.
Trước hôm đi, bè bạn kéo nhau ra Hóc Môn nhậu gà hấp hèm. Đất ven đô hồi đó còn hơi vắng, nhưng cũng đã lên vàng, chẳng vàng 4 số 9, thì cũng 9 số 4, hơi hướm “văn minh” đã len tới. Dàn nhạc lưu động, cũng bass treble ra trò, đến trước quán vừa bán kẹo, vừa mượn nhạc đệm karaoke chơi nhạc sống. Ca sĩ toàn mấy em pêđê, ở đâu mà ra nhiều thế!
Bản: Sương trắng miền quê ngoại nghe nhiều rồi, hôm đó nghe lại thấm. “Một mai con về quê ngoại chơi, để mẹ nhắn lời thăm….” Trời ơi, giọng mấy em pêđê mà ẻo thì tới mức tận cùng sến… rện. Càng nghe càng thấm.
Đất Sài Gòn tìm đâu ra càphê nhạc sến. Dù càphê ở những quán deluxe không quá tệ như càphê đậu nành, nhưng chắc chắn không phải là “càphê Sài Gòn”. Càphê gì mà đen thui đặc sệt, chỉ là một kiểu càphê bá đạo có bản quyền. Nhạc thì ầm ầm DJ uốn éo, khổ cho cái đầu già cổ lỗ sĩ. Cũng có quán chơi nhạc trữ tình, nhạc của một thời, nhưng nhìn cách bài trí của quán, tôi đã cảm thấy kiểu “một thời” đó là cái mà mình muốn quên. Như lúc này, tôi không còn muốn nghe ca khúc da vàng nữa. Nghe mà ngượng, thì nghe làm gì?
Vài năm trở lại đây, mỗi lần từ Đà Lạt về Sài Gòn, tôi vẫn hay ghé xe càphê đường Nguyễn Minh Chiếu chỉ để nghe nhạc sến, chẳng phải đến từ dàn Onkyo loa Bose, mà từ cái máy cassette nhỏ xíu rù rì trong hẻm. Ngồi cả giờ đồng hồ, đến khi rời quán mà ly càphê vẫn còn quá nửa, đá tan loãng hết rồi. Dĩ vãng vay mượn càphê, để cái vẻ bụi bặm của quán, và nhạc sến dẫn tôi về miền ký ức. Tiếng đại bác đâu còn ru đêm nữa, nó như dội ngược vào lòng. Nhiều bản nhạc từ hồi xửa hồi xưa, giờ nghe lại, rồi lẩm nhẩm hát theo mà chạnh lòng “… Tiếng còi đêm lướt mau, đoàn tàu đi về mãi, mà bạn thân tôi nơi đâu…”
Thấy tiếc và nhớ. Nhớ ngẩn người!
*Vũ Thế Thành
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Cái bến ở Sài Gòn
Phan Xuân Trung
Xưa kia Sài Gòn có nhiều sông rạch, giao thông đường thủy nhiều. do đó có nhiều bến bãi cho ghe, tàu neo đậu. Các bến đó là Bến Thành, Bến Nghé.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập, các tên đường phố Sài Gòn được chuyển đổi từ tên Tây sang tên Ta, ông Ngô Văn Phát, Nhà văn – bút hiệu Thuần Phong được giao nhiệm vụ đặt lại tên đường cho Sài Gòn. Tất cả các tên đường được sắp xếp rất khoa học, có liên quan với nhau. Ví dụ đường Hai Bà Trưng và đường Thi Sách ở bên nhau, đường Hai Bà Trưng thì dài còn Thi Sách thì ngắn, nhỏ do công trạng trong lịch sử. Cô Giang, Cô Bắc, Nguyễn Thái Học được đặt gần nhau. Võ Tánh, Gia Long, Võ Bá Tòng... ở gần nhau. Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ được đặt cho các con đường lớn nhất...
Doc theo các con sông, để ghi nhớ lịch sử, ông Phát đặt các tên Bến Bạch Đằng, Bến Hàm Tử, Bến Chương Dương, Bến Vân Đồn... Đây là những địa danh ghi dấu những trận chiến hiển hách của dân tộc. Những địa danh này tất nhiên là ở miền Bắc nước ta, được đặt tên cho Sài Gòn để mọi người dân ghi nhớ lịch sử nước nhà.
Hiện nay, Bến Hàm Tử và Bến Chương Dương đã bị thay thế do có đại lộ Đông Tây, được đặt tên cho Võ Văn Kiệt mà không có tái định cư cho 2 Bến này.
Biến mất tên đường là làm quên đi một phần lịch sử. Ngoài việc mất tên đường còn có việc làm mất tượng đài như tượng An Dương Vương giương nỏ thần ở khu vực cầu Móng, khi làm hầm Thủ Thiêm thì bị đem vào viện bảo tàng Mỹ Thuật gần đó mà không cho phục dựng hay tượng Trần Nguyên Hãn nổi bật ở trước chợ Bến Thành.
Những thay đổi ngôn ngữ như ga thay cho bến, vòng xuyến thay cho bùng bình, rẽ thay cho quẹo hay cua... làm phai mờ, xói mòn ký ức, xói mòn văn hóa, xói mòn lịch sử mà những nhà văn hóa đã gây dựng.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Hahaha... Hèn mạt thấy con đĩ mẹ 3Quặp chúng nó... Trốn dưới cống Cali rãnh Texas, vv... cũng gần 50 năm ăn kứt thì lấy cái đéo gì mà "dẹp" được ai, ngoài việc "sủa".... Dám đụng cái lông chân tụi VC sao.... Thằng Hùng gì gì đó mặc áo cờ VC nghênh ngang Little Saigon còn cùng nhau kéo cả đám ra phủ phục lạy lục nó nữa kìa.... Mẹ kiếp........
Ngu oi Tân Đinh -------- thằng này họ " ngu ", cha nó làm thợ hồ, trước khi trốn xuống tàu Pháp làm rửa chén ???
The Following User Says Thank You to do_chua For This Useful Post:
Thiên hạ khắp nơi chứ không chỉ là người Sài Gòn, có cả những bậc trí giả, túc nho… đang nổi giận về cái cụm từ “Ga tàu thủy Bạch Đằng”.
Cơn giận có cơ sở vì đây là một cụm từ kỳ dị, kết hợp một mớ từ “hổ lốn”, “hằm bà lằng” gồm cả từ gốc tiếng Pháp (gare), tiếng Tàu (thủy 水) lẫn tiếng Ta (tàu). Ai học, chú ý ngôn ngữ tiếng Việt đều biết có một nguyên tắc cơ bản trong tiếng Việt: từ gốc Việt đi với từ gốc Việt, từ gốc Hán Việt đi với từ gốc Hán Việt…
Trước 1975, ở miền Nam, người ta dùng từ Hán Việt, chưa phải đã hay nhưng ít ra từ Hán Việt đi với từ Hán Việt, không Tây - Tàu - Ta lẫn lộn và thống nhất cách gọi: hải cảng (cảng biển), giang cảng (cảng sông), xa cảng (cảng xe), phi cảng (cảng bay - dịch từ air port - ảnh). Không lung tung như hiện nay: bến xe, ga hành khách, ga hàng không, ga tàu hỏa, ga tàu thủy, cảng biển, cảng sông, sân bay...
Hẳn có người cũng cố biện bạch ga (gare) trong từ nguyên (tiếng Pháp) bao gồm cả những công trình, nhà cửa cho xe cộ, xe lửa… lẫn tàu thuyền.
Đây là cách hiểu “học đã sôi cơm nhưng chửa chín” khi không nắm được một nguyên tắc nữa trong mọi ngôn ngữ: mỗi vùng đất, mỗi xứ sở, mỗi dân tộc… đều có cách hiểu khái niệm một từ nào đó của riêng mình. Có những từ Hán Việt được người Việt hiểu khác với từ Hán gốc. Với người Việt xưa nay, không chỉ người Sài Gòn/người miền Nam, ga vốn chỉ dành cho (bến) xe lửa.
Đọc bài thơ, nghe nhạc phẩm “Chiều sân ga”, “Tàu đêm năm cũ” người ta đều hiểu ga này là ga xe lửa, không phải “ga hành khách” như tấm bảng trước bến xe buýt quận 8. Càng không phải “ga tàu thủy Bạch Đằng” đang dậy sóng sông Sài Gòn hiện nay.
bachdang_10
Với người Việt xưa nay, không chỉ người Sài Gòn/người miền Nam, nơi đưa đón hành khách đi đường sông, đường biển, đường bộ… đều gọi là bến. Ngoài Bắc có bến Bính (Hải Phòng), bến Xanh (Ninh Bình), bến xe Mỹ Đình, bến xe Gia Lâm, bến xe Nước Ngầm…Trong Nam có bến xe miền Tây, bến xe miền Đông, bến xe Tây Ninh, bến xe Cần Thơ và bến Bạch Đằng, bến Chương Dương, bến Hàm Tử, bến Nhà Rồng, bến Ninh Kiều… Không sao kế xiết vì đâu đâu cũng nói vậy.
“Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai…” (nhạc phẩm “Sài Gòn đẹp lắm”), “Về bến Ninh Kiều thấy nàng đợi người yêu” (nhạc phẩm “Chiếc áo bà ba”)… Vô số người biết, từng hát những lời hát, bài hát này.
Trong đó từ “bến” là cách gọi rất Việt cho từ “quai” của tiếng Pháp vốn dành cho cả bến xe lẫn bến tàu.
bachdang_11
Câu thơ đầu tiên trong bài thơ nổi tiếng “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách 潯陽江頭夜送客”(Đầu sông Tầm Dương, đêm tiễn khách) không có bến.
Nhưng tác giả Phan Huy Thực (1778 - 1846; con trai thứ hai Phan Huy Ích, anh Phan Huy Chú) khi dịch sang chữ Nôm cũng nổi tiếng đã thêm “bến” vào: “Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách”.
Với người Việt, với tiếng Việt, dưới có ghe, có thuyền, có tàu bè, ca nô… thì trên phải là bến. “Trên bến dưới thuyền”.
“Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (Ca dao)
Bộ phim “Thượng Hải than” 上海灘 trong đó “than” 灘 hàm nghĩa một vùng đất ven nước (ví dụ “sa than” 沙灘 cồn cát, “hải than” 海灘 bãi biển…), sang tiếng Việt phải là “Bến Thượng Hải”.
Giờ bỗng dưng người ta đẻ ra cái gọi là “Ga tàu thủy”. Có lẽ từ suy nghĩ đơn giản và ngô nghê: có “ga tàu hỏa” thì có “ga tàu thủy” cũng bình thường (may mà người ta chưa sáng tạo ra “ga tàu bay”).
Thiên hạ đã, đang nổi giận và hoàn toàn có cơ sở thực tế lẫn lý luận của cơn giận chính đáng trước cụm từ phá hoại sự trong sáng của tiếng Việt này. Nó kỳ quặc kiểu lai căng vì khác cách nói của dân Việt chứ không chỉ người Sài Gòn.
Đó là chưa nói “Bến Bạch Đằng” ai cũng biết xưa giờ đã là một cụm từ quen thuộc, mang tính văn hóa của người Sài Gòn.
Ngành chức năng và tác giả cụm từ này tới giờ vẫn im lặng kiểu “chắc nó trừ mình ra”. Truyền thông báo chí tới giờ cũng chưa lên tiếng. Lẽ nào chỉ dân biết, dân bàn, dân nghe; còn cái bảng chữ Tây - Tàu - Ta kỳ dị ấy vẫn sờ sờ ra đó, làm gì nhau!
CÙ MAI CÔNG
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.