MỘT CÂU CHUYỆN Ư NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những ǵ chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời ḿnh bằng chính những ǵ mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ ǵ th́ sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ư nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nh́n thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời ḿnh, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT V̀ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vă lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy th́ ông bất ngờ để ư nh́n thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy v́ cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên v́ sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới th́ sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ tŕnh, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đă cứu mạng ông! Quân Quốc Xă có tin t́nh báo nên biết chính xác hành tŕnh của ông và đă bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp ŕnh tại các ngă tư. Nếu ông tới th́ sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào ḷng tốt gieo đúng lúc đă giúp ông đổi lộ tŕnh và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lư mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ư nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
V́ vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hăy nh́n lại hành tŕnh mà bạn đă đi qua, sự cho đi đă đúng và đủ hay chưa. Đừng đ̣i hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
Chúng ta phải biết quán chiếu sự vô thường để luôn sống tỉnh thức trong mỗi giây phút thực tại. Ta hăy tinh tấn niệm Phật để khi sống, thân tâm ta luôn được an lạc và khi mất thân này, ta được sinh về thế giới của Phật A Di Đà.
>>Phật pháp và cuộc sống
Bài liên quan
Vô thường không làm ra khổ
Mỗi ngày trôi qua nhanh th́ cuộc sống của chúng ta giảm dần, ví như cá bị mắc cạn ở trong ao, nên chẳng có vui ǵ trong sự biến đổi của vô thường thế thái. Ấy vậy mà cả đời chúng ta chỉ biết chạy theo cái mồi danh và bả lợi cùng những dục vọng thị phi của cuộc đời để rồi chuốc lấy sự khổ đau. Chúng ta chẳng bao giờ bằng ḷng với phút giây hiện tại mà chẳng biết rằng chính cái giây phút ấy lại vô cùng quư báu đối với cuộc đời. Hăy bằng ḷng với những ǵ mà chúng ta đang có. Trong cuộc sống này, chẳng có ǵ tồn tại măi măi. Từ con người đến vũ trụ cũng đều chịu chung một định luật vô thường chi phối. Bởi vậy, ta đừng nên tham đắm và quyến luyến những thứ vốn tồn tại trên bản chất của danh và sắc mà hăy dang tay đón nhận những hạnh phúc hay khổ đau đến với ḿnh một cách an nhiên, tự tại. V́ sự sợ hăi sẽ đeo bám chúng ta nếu chúng ta t́m cách trốn tránh khổ đau. Và thất vọng chán chường sẽ đến nếu chúng ta thích đón nhận sự sung sướng và hạnh phúc.
Mỗi ngày trôi qua nhanh th́ cuộc sống của chúng ta giảm dần, ví như cá bị mắc cạn ở trong ao, nên chẳng có vui ǵ trong sự biến đổi của vô thường thế thái.
Mỗi ngày trôi qua nhanh th́ cuộc sống của chúng ta giảm dần, ví như cá bị mắc cạn ở trong ao, nên chẳng có vui ǵ trong sự biến đổi của vô thường thế thái.
Bài liên quan
Tưởng vô thường, tưởng vô ngă, thoát mọi khổ đau
V́ bản chất của đời sống là vô thường, là biến diệt, không trường tồn, giả tạm, vay mượn của tứ đại th́ cũng trả lại về cho tứ đại. Cho nên, mỗi ngày chúng ta hăy dành một ít thời gian để niệm Phật hoặc thiền định, để xóa bỏ đi những ham muốn của dục lạc và sự tị hiềm ganh ghét. Hăy dùng tuệ giác quán xét kỹ về điều đó, ta sẽ không c̣n sự âu sầu hay lo lắng. Ta nên học theo hạnh “từ bi, hỷ xả” của đức Phật và chư đại Bồ tát, biết dừng lại và không chạy theo ảo ảnh. Bởi v́ thể xác và trí tuệ vốn tồn tại trong sự liên quan và mật thiết với nhau, không thể tách rời tựa như cá với nước. Nếu tách rời một trong hai th́ chúng sẽ bị tiêu hoại. V́ thế, trong mọi hành động, chúng ta hăy b́nh tâm để thấy rơ điều ǵ ḿnh nên làm hay không nên làm, điều ǵ có thể tăng trưởng thiện căn trong ta và có lợi ích cho mọi người.
Chúng ta phải biết quán chiếu sự vô thường để luôn sống tỉnh thức trong mỗi giây phút thực tại. Ta hăy tinh tấn niệm Phật để khi sống, thân tâm ta luôn được an lạc và khi mất thân này, ta được sinh về thế giới của Phật A Di Đà.
Chúng ta phải biết quán chiếu sự vô thường để luôn sống tỉnh thức trong mỗi giây phút thực tại. Ta hăy tinh tấn niệm Phật để khi sống, thân tâm ta luôn được an lạc và khi mất thân này, ta được sinh về thế giới của Phật A Di Đà.
Chúng ta phải biết quán chiếu sự vô thường để luôn sống tỉnh thức trong mỗi giây phút thực tại. Ta hăy tinh tấn niệm Phật để khi sống, thân tâm ta luôn được an lạc và khi mất thân này, ta được sinh về thế giới của Phật A Di Đà. Có như thế, ta mới không uổng phí một kiếp người ngắn ngủi phù du ở cơi Ta bà giả tạm này.
Để có một tương lai - nơi những h́nh thức mới của Ngũ Giới được hiển bày
Thứ tư, 09/10/2019 | 10:56
Học hỏi và thực tập theo Năm Giới và nương tựa Tam Bảo chắc chắn sẽ mang lại an lạc cho bản thân, cho cộng đồng và cho xă hội. Là con người, chúng ta cần có một cái ǵ để tin tưởng, một cái ǵ lành, đẹp và thật, một cái ǵ mà ta có thể tiếp xúc.
>>Những cuốn sách Phật giáo hay nên đọc
Trong xă hội có rất nhiều mối nguy. Nếu chúng ta đặt một người trẻ vào xă hội mà không t́m cách bảo vệ họ, họ sẽ tiếp nhận những bạo động, căm thù, sợ hăi và bất an mỗi ngày, rốt cuộc họ sẽ bị bệnh. Những câu chuyện của chúng ta, những chương tŕnh tivi, quảng cáo, sách báo đều tưới tẩm các hạt giống khổ đau nơi những người trẻ và cả những người lớn. Chúng ta cần một vài nguyên tắc, vài phương thuốc cho căn bệnh của ḿnh, những ǵ lành, đẹp và thật để có thể nương tựa vào.
B́a cuốn sách: Để có một tương lai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ phát hành vào ngày 20/9/2019.
B́a cuốn sách: Để có một tương lai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ phát hành vào ngày 20/9/2019.
Bài liên quan
Cho nhẹ ḷng nhau - cái nh́n nhân hậu từ bi của Đại đức Giác Minh Luật
Hơn 2.500 năm trước, Đức Phật đă đưa ra các nguyên tắc cho những người đệ tử tại gia của Ngài để giúp họ sống một đời sống b́nh an, lành mạnh và hạnh phúc. Đó là Năm Giới và nền tảng của mỗi Giới này là chánh niệm. Với chánh niệm, chúng ta ư thức được những ǵ đang xảy ra nơi thân thể, cảm thọ, tâm hồn và thế giới quanh ta, cũng như ta tránh không gây tổn hại cho ḿnh và cho người.
Học hỏi và thực tập theo Năm Giới và nương tựa Tam Bảo chắc chắn sẽ mang lại an lạc cho bản thân, cho cộng đồng và cho xă hội. Là con người, chúng ta cần có một cái ǵ để tin tưởng, một cái ǵ lành, đẹp và thật, một cái ǵ mà ta có thể tiếp xúc. Trong quyển sách này, Năm Giới được diễn bày theo h́nh thức mới, đó là Bảo vệ sự sống, Hạnh phúc chân thực, T́nh thương đích thực, Ái ngữ và Lắng nghe, Nuôi dưỡng và trị liệu.
Với chánh niệm, chúng ta ư thức được những ǵ đang xảy ra nơi thân thể, cảm thọ, tâm hồn và thế giới quanh ta, cũng như ta tránh không gây tổn hại cho ḿnh và cho người.
Với chánh niệm, chúng ta ư thức được những ǵ đang xảy ra nơi thân thể, cảm thọ, tâm hồn và thế giới quanh ta, cũng như ta tránh không gây tổn hại cho ḿnh và cho người.
Năm Giới chính là t́nh thương. Thương có nghĩa là hiểu, bảo vệ và mang lại an vui cho đối tượng thương yêu của chúng ta. Giới không phải là luật lệ mà là những nguyên tắc hướng dẫn giúp ta tập sống như thế nào để có thể bảo hộ cho ḿnh và cho những người xung quanh.
Khi có người hỏi: “Bạn có quan tâm đến bản thân không?”, “Bạn có quan tâm đến người bạn đời không”, “Bạn có quan tâm đến Trái đất không?”... cách hay nhất để trả lời là hành tŕ Năm Giới. Đây là cách dạy bằng thân giáo chứ không phải chỉ bằng lời. Nếu bạn thật sự quan tâm, xin hăy hành tŕ các Giới này để bảo hộ cho ḿnh và cho mọi người, mọi loài khác nữa. Nếu chúng ta thực tập hết ḷng th́ tương lai sẽ c̣n có mặt cho chúng ta và con cháu chúng ta.
Nhưng có ai sẽ không phải là thầy? Tuy c̣n trẻ, tuy ḿnh mới là sa di, sa di ni, hay tân tỳ khưu, tân tỳ khưu ni, nhưng “cái phần” của người tu nó bắt buộc ḿnh phải lớn lên, rồi ḿnh cũng phải thu nhận đệ tử, phải trở thành ông thầy.
>>Phật pháp và cuộc sống
Giữa thầy với tṛ thường có một mối t́nh. Mối t́nh này được làm bằng chất liệu gọi là tương ứng, tương cảm. T́nh này không có chất liệu của sự vướng mắc. T́nh này cũng có sự ngọt ngào, nhưng nó được làm bằng chất liệu của hiểu biết, của thông cảm. Khi một người hiểu được ḿnh th́ tự nhiên ḿnh cảm thấy biết ơn người đó, dù người đó là học tṛ của ḿnh, hay là con của ḿnh. Từ cái hiểu đó nó phát sinh ra một thứ t́nh. V́ vậy mà ta nói t́nh đó được làm bằng chất liệu của sự đồng tâm tương ứng.
Giữa thầy với tṛ thường có một mối t́nh. Mối t́nh này được làm bằng chất liệu gọi là tương ứng, tương cảm. T́nh này không có chất liệu của sự vướng mắc.
Giữa thầy với tṛ thường có một mối t́nh. Mối t́nh này được làm bằng chất liệu gọi là tương ứng, tương cảm. T́nh này không có chất liệu của sự vướng mắc.
Bài liên quan
Chùa Thầy và truyền thuyết ly kỳ về Thiền sư Từ Đạo Hạnh
Trong kinh Pháp Hoa có câu chuyện một ông thầy thuốc rất giỏi, có nhiều con. Trong khi ông đi xa, ở nhà các con ông ăn nhằm những thức ăn độc nên lăn ra ngă bệnh. Đứa th́ mửa, đứa th́ ho, đứa th́ đau bụng, đứa th́ đau đầu, nhức mỏi, đủ hết các triệu chứng của độc tố. Khi người cha về, thấy các con đau đớn như vậy th́ ông tùy theo bệnh trạng của từng đứa mà cho thuốc.
Có một số con của ông chấp nhận thuốc và uống th́ lành bệnh. Những đứa khác không chịu uống thuốc, hỏi tại sao lại phải uống thuốc? Cha ḿnh đang ở đây, nếu ḿnh có mệnh hệ nào th́ cha ḿnh sẽ cứu, không cần uống thuốc! Cho nên chúng vẫn tiếp tục bị đủ thứ bệnh, và bệnh t́nh càng ngày càng nặng!
Cuối cùng ông cha nghĩ rằng: Có ḿnh ở đây th́ các con không chịu uống thuốc, chi bằng ḿnh đi chỗ khác th́ họa may chúng mới chịu uống. V́ vậy ông ra đi, và nhắn tin về là ông đă chết! Lúc đó mấy đứa con mới hết ỷ lại, mới chịu uống thuốc, và mới lành bệnh.
Có nhiều vị đệ tử cũng vậy. Khi thầy đang sống với ḿnh th́ không chịu thực tập những điều thầy dạy. Có người tiếp nhận và thực tập ngay những điều thầy dạy, nên đạt được sự chuyển hóa, và an lạc ngay trong thời gian ở với thầy. Có người lại nói thuốc của thầy ḿnh hay thật, nhưng đâu cần uống bây giờ, mai mốt uống cũng được. Uống thuốc th́ phải cữ ăn cái này, cữ ăn cái kia! Thôi, để hôm nay ḿnh ăn cái này, ăn cái kia cho sướng miệng đă, rồi mai mốt uống cũng không muộn. Đó là lập luận của những người không chịu uống thuốc.
Trong số các đệ tử của tôi, có người cũng nghĩ như vậy. Ăn thua là ḿnh học được pháp môn, mai mốt thực tập th́ đâu có muộn! H́nh như ḿnh đă nắm được pháp môn đi thiền hành rồi, h́nh như ḿnh đă nắm được pháp môn thở và làm mới rồi. Bỏ túi cái đă, mai mốt rồi thực tập. V́ vậy mà họ không chuyển hóa, không lành bệnh. Cho nên ông thầy rất rầu! Nhiều khi ông nghĩ giống hệt như ông thầy thuốc kia: Hay là ḿnh phải đi nơi khác, hay ḿnh phải chết đi th́ học tṛ ḿnh mới chịu thực tập!
Chữ tri kỷ ở đây có nghĩa là someone who really understands you (một người thật sự hiểu bạn).
Chữ tri kỷ ở đây có nghĩa là someone who really understands you (một người thật sự hiểu bạn).
Bài liên quan
Nguyên tắc t́m người tri kỷ trong cuộc đời
Đó là tâm sự chung của những ông thầy. Nhưng có ai sẽ không phải là thầy? Tuy c̣n trẻ, tuy ḿnh mới là sa di, sa di ni, hay tân tỳ khưu, tân tỳ khưu ni, nhưng “cái phần” của người tu nó bắt buộc ḿnh phải lớn lên, rồi ḿnh cũng phải thu nhận đệ tử, phải trở thành ông thầy. Mà hễ làm thầy là sẽ bị đau khổ v́ học tṛ! Tại v́ học tṛ có những người chịu thực tập những điều ḿnh dạy, nhưng có những người không chịu thực tập. Có những người học tṛ chỉ cần những cái rất nhỏ, như sự chăm sóc, sự ngọt ngào của thầy thôi! Họ không biết rằng cái quan trọng nhất, quư hóa nhất mà ḿnh có thể tiếp nhận từ thầy, không phải là sự chú ư, sự ngọt ngào, sự săn sóc nho nhỏ của thầy, mà là mối t́nh lớn kia, sự săn sóc lớn kia, sự ân cần, thương tưởng, sự tâm niệm mỗi ngày để cho học tṛ ḿnh lớn lên, để cho học tṛ ḿnh có thể nối tiếp được sự nghiệp của chánh pháp.
Họ không chịu tiếp nhận những cái đó để thực tập, mà chỉ đ̣i hỏi những cái nho nhỏ! Được thầy chú ư một chút, được thầy cưng thêm một chút, được thầy nói một câu ngọt ngào, được thầy săn sóc chút xíu. Ḿnh chỉ cần những thứ thường t́nh, rơm rác như vậy thôi, mà không biết cái mà thầy muốn trao truyền cho ḿnh, nó lớn hơn, nó quí trọng hơn cái đó nhiều lắm.
Chữ tri kỷ ở đây có nghĩa là someone who really understands you (một người thật sự hiểu bạn).
V́ vậy, các ông đừng bao giờ có ḷng khinh mạn bất cứ vị Thầy nào. Họ dạy hay hay dở chẳng liên quan ǵ đến các ông, việc của các ông chỉ là làm sao cho ḿnh hết khổ được vui, đồng thời cũng giúp người khác hết khổ được vui.
>>Phật tử có thể đọc loạt bài về Lời Phật dạy
Có một vị Tỳ-kheo thường theo Phật khi Phật đi hoằng hoá khắp nơi. Một hôm, vị ấy thưa với Phật rằng:
Bài liên quan
Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- Bạch Thế Tôn! Ngài là vị Thầy vĩ đại nhất trong lịch sử loài người.
Phật nghe xong, nét mặt b́nh lặng không hiện một nét vui nào, hỏi lại Tỳ-kheo ấy:
- Ông đă gặp qua tất cả các vị Thầy vĩ đại trên thế gian này chưa?
Tỳ-kheo thưa:
- Dạ con chưa gặp.
Phật lại hỏi:
- Vậy ông có quen biết tất cả các vị Thầy c̣n sống hay sắp ra đời trên thế gian này không?
Tỳ-kheo đáp:
- Dạ con không quen.
Trên thế gian này có rất nhiều vị Thầy vĩ đại, họ tự có phương pháp giáo hoá người. V́ vậy, các ông đừng bao giờ có ḷng khinh mạn bất cứ vị Thầy nào. Ảnh minh họa
Trên thế gian này có rất nhiều vị Thầy vĩ đại, họ tự có phương pháp giáo hoá người. V́ vậy, các ông đừng bao giờ có ḷng khinh mạn bất cứ vị Thầy nào. Ảnh minh họa
Phật dạy:
- Ông nói ta là vị Thầy vĩ đại nhất trong tất cả các vị Thầy trên thế gian này, câu nói này không có một chút ư nghĩa nào cả, bởi v́ chính ông cũng không có cách ǵ biết được câu nói của ông rốt cuộc là đúng hay sai, thật hay giả. Nếu ông thấy rằng những lời ta dạy ông có ích lợi cho ông th́ ông hăy thực hành theo, làm đúng những ǵ ta chỉ dạy, như vậy ta sẽ vui hơn là ông theo nịnh hót ta.
Tỳ-kheo liền phản đối:
- Con không phục, bởi v́ nếu lỡ như lời Ngài dạy không đúng mà con thực hành theo, vậy không phải uổng phí công phu của con sao?
Phật bảo:
Bài liên quan
A dua nịnh bợ trục lợi
- Điều ông nói với lời ta dạy đâu có khác. Các ông đừng cho rằng tất cả những ǵ ta nói đều chân thật, đều chính xác. Các ông phải tự ḿnh thực hành lời dạy của ta, kiểm nghiệm xem lời ta dạy có đúng không, có dối gạt người không. Nếu các ông thấy những lời ta dạy là thật, là có ích th́ các ông tiếp tục thực hành theo. Các ông đừng bao giờ chỉ v́ tôn kính ta mới làm theo lời ta dạy. Ngoài ra, đừng bao giờ phê b́nh lời dạy của người khác, nói người ta dạy không tốt. Trên thế gian này có rất nhiều vị Thầy vĩ đại, họ tự có phương pháp giáo hoá người. V́ vậy, các ông đừng bao giờ có ḷng khinh mạn bất cứ vị Thầy nào. Họ dạy hay hay dở chẳng liên quan ǵ đến các ông, việc của các ông chỉ là làm sao cho ḿnh hết khổ được vui, đồng thời cũng giúp người khác hết khổ được vui.
Vị Tỳ-kheo nghe xong lời khai thị của Thế Tôn, hiểu ngộ sâu xa, từ đó ông luôn dùng thái độ tôn trọng, đứng trên góc độ khách quan, dùng trí tuệ mà đánh giá người hoặc việc, chứ không c̣n nh́n sự việc theo t́nh cảm hay theo quan niệm chủ quan của ḿnh.
Cuộc sống thế gian có muôn màu: người giàu sang, kẻ bần cùng; người gặp vận may, kẻ bị xui rủi. Trong tâm con người cũng có tham, sân, si và gian ác; cũng có tâm từ bi, hỉ xả và lương thiện; về tinh thần của con người có mừng giận, vui buồn, thương ghét.
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; lại có băo lớn, động đất, chiến tranh, lụt lội, cháy thiêu và các tai nạn khác; nhưng cũng có thái b́nh, yên vui, lúa, đậu được mùa và những công việc được thuận lợi. V́ sao Thượng Đế ban cho người được hạnh phúc an vui, lại gây cho người bị tai nạn và đau khổ?
Khi chúng ta làm việc thuận được thăng quan tiến chức, trở nên giàu có th́ vênh váo đắc ư, thái độ hống hách xem mọi người không ra ǵ. Lúc chúng ta làm ăn sa cơ thất thế, nản ḷng th́ cúi đầu vâng dạ cầu xin mọi người giúp đỡ; thậm chí như chó vẫy đuôi cầu xin người thương xót. Khi vận may đến chúng ta được thăng chức, phát tài, mọi người đều cung kính chúng ta, bợ đỡ, đút của hối lộ. Lúc làm ăn thất bại chẳng ai màng ngó đến, xem thường; thậm chí t́m cách vùi dập. Cho nên nói: “Nghèo ở phố thị không ai hỏi, giàu lánh rừng sâu lắm kẻ t́m”.
Trong kinh Phật cũng có câu chuyện ví dụ như thế.
"Có anh chàng kia ở một thành phố nọ, vừa giàu sang vừa thông minh; nhà anh luôn có khách đến viếng thăm, họ tâng bốc nịnh bợ và ca tụng anh. Anh hàng xóm luôn gần gũi, cung kính lại gọi anh xưng em, ân cần hầu hạ mọi việc. Ở trước mọi người hắn thường ca ngợi anh ta nhân từ vĩ đại. Chẳng bao lâu, anh chàng ta gặp thiên tai phá sản, gia đ́nh lâm vào cảnh bần cùng, phải vay mượn tiền bạc mọi người để sống qua ngày. Thấy vậy, tên hàng xóm dần dần tránh xa anh ta, không muốn gặp mặt.
Có người hỏi hắn:
- Khi anh chàng kia giàu có giúp đỡ anh rất nhiều, nay anh ấy bị thiên tai phá sản v́ sao anh không giúp anh ấy để hồi phục lại cơ nghiệp?
Hắn nói:
- Khi anh ta giàu th́ tôi muốn hưởng kiếm chác sự vinh hoa và giàu sang của anh ấy; nay anh ấy đă sa cơ tôi giúp anh ta chỉ có cực khổ. V́ sao tôi tự chuốc khổ vào ḿnh? Ngay cả gặp anh ấy, tôi cũng chưa hề hỏi thăm một tiếng.
Người xưa nói: “Thế thái nhân t́nh bạc như vôi, biết rơ như thế ngắm hoa thôi”. Thật là không sai".
Chân lí Phật pháp rất vi diệu
Bài học đạo lí
Thế gian có rất nhiều ngoại đạo, họ nghe chân lí Phật pháp cảm thấy rất vi diệu; nhưng họ không chịu quy y Tam bảo mà t́m mọi cách lén trộm kinh văn Phật giáo, lại đem chỉnh sửa xen tạp trở thành tà thuyết của ḿnh. Họ lấy mắt cá trộn với hạt châu nói là hàng thật. Có người học nghi thức Phật giáo trang điểm bề ngoài nghi lễ của ḿnh, lừa gạt quyên góp tín đồ.
Có người hỏi hắn:
- Anh chỉ học danh từ và nghi thức của Phật giáo, sao không học giới luật và phương pháp tu hành?
Hắn đáp:
- Tôi học nghi thức của Phật giáo là để kiếm tiền, học kinh điển của họ là để bổ sung giáo lí của chúng tôi được phong phú. Tôi học giới luật và tu hành phương pháp tu hành chỉ chịu cực khổ không có lợi ích. Tôi cần ǵ phải chuốc khổ vào thân?
Sự việc ở thế gian khi có lợi ích cho ḿnh th́ họ t́m mọi cách như ăn trộm, cướp giật, dối gạt, lừa đảo để thâu tóm về ḿnh. Khi không được lợi ích, hoặc bị người biết ngăn chặn th́ áp đảo người trước, phỉ báng, bài xích, giống như oan gia sống chết. Có người học giáo lí v́ nương nhờ cửa chùa để sống qua ngày. Có người lợi dụng tôn giáo để làm giàu. Có người thay trời hành đạo. Có người hoằng pháp lợi sinh. Có người tinh tiến tu hành. Có người làm việc cứu đời lợi người. Tư tưởng của mỗi người chính xác là tất cả việc làm đều đúng theo ư ḿnh; bằng không th́ trái lại.
Con người là tối linh trong muôn vật có thể dựa vào muôn vật mà phát triển hạnh phúc nhân loại. Trí thức con người sáng suốt cũng có thể dựa vào tài năng để làm lợi ích cho mọi người. Người gian xảo cũng có thể lợi dụng nhược điểm của họ mà tận dụng cơ hội t́m điều lợi ích. Có người mượn danh thần thánh mà bóc lột nhân dân. Người ngu muốn lợi dụng người giàu sang để được lợi th́ lộ ra bản chất thấp hèn và gian ác của họ. Người tín ngưỡng tôn giáo, hoặc Thiên Chúa giáo, Phật giáo đều là nhiệm vụ của thần thánh; nếu v́ danh lợi làm mê lí trí th́ trở thành tội nhân của tôn giáo. Cho nên thế lợi vẫn là ma vương, đời sau sẽ kêu gọi những dân ma trở về cơi ma, lẽ nào chúng ta không đề cao cảnh giác?
New electrolyte stops rapid performance decline of next-generation lithium battery
IMAGE: Charging results in doubly or triply charged metal cations, such as Mg2+ (orange spheres), along with singly charged lithium ions (green spheres) being co-inserted from the electrolyte into the silicon...
Credit: Argonne National Laboratory
Argonne's new electrolyte mixture stabilizes silicon anodes during cycling.
The lithium-ion battery is ubiquitous. Because of its versatility, this battery can be tailored to powering cell phones, laptops, power tools or electric vehicles. It is now the source of a multibillion-dollar enterprise annually that continues to grow each year.
Researchers at the U.S. Department of Energy's (DOE) Argonne National Laboratory have developed a new electrolyte mixture and a simple additive that could have a place in the next generation of lithium-ion batteries.
"Based on these test results, we have every reason to believe that, if silicon anodes ever replace graphite or constitute the anode in more than a few percent concentration, this invention will be part of it and could have far reaching impact." -- Baris Key, Argonne chemist
For many decades, scientists have been vigorously hunting for new electrode materials and electrolytes that can produce a new generation of lithium-ion batteries offering much greater energy storage while lasting longer, costing less and being safer. This new generation will likely make electric vehicles more widespread and accelerate the electric grid's expansion into renewable energy through cheaper and more reliable energy storage.
For scientists developing advanced lithium-ion batteries, the silicon anode has been the preeminent candidate to replace the current graphite anode. Silicon has a significant theoretical energy storage capacity advantage over graphite, being able to store almost ten times the lithium as does graphite. Increasing silicon's attractiveness commercially is its low cost. It is the second most abundant material in the Earth's crust, and its prevalence in computing and telecommunications hardware means there exist substantial processing technologies.
"But a stumbling block has remained," noted Jack Vaughey, a senior chemist in Argonne's Chemical Sciences and Engineering (CSE) division. "On cycling, a silicon-based anode in a lithium-ion cell becomes very reactive with the electrolyte, and this process degrades the cell over time, causing a shortened cycle life."
Lithium-ion battery electrolytes currently contain a solvent mixture, with a dissolved lithium salt and at least one, often more than three organic additives. Argonne scientists have developed a unique electrolyte additive strategy -- a small amount of a second salt containing any one of several doubly or triply charged metal cations (Mg2+, Ca2+, Zn2+, or Al3+). These enhanced electrolyte mixtures, collectively named "MESA" (which stands for mixed-salt electrolytes for silicon anodes), give silicon anodes increased surface and bulk stabilities, improving long-term cycling and calendar life.
"We have thoroughly tested MESA formulations with full cells fabricated with standard commercially relevant electrodes," said Baris Key, a chemist in the CSE division. "The new chemistry is simple, scalable and fully compatible with existing battery technology."
"In this project, we greatly benefited from Argonne's Cell Analysis, Modeling and Prototyping (CAMP) facility," added Vaughey. "It was there that we tested our MESA formulations."
The Argonne researchers also investigated how the MESA-containing electrolytes work. During charging, the metal cation additions in electrolyte solution migrate into the silicon-based anode along with the lithium ions to form lithium-metal-silicon phases, which are more stable than lithium-silicon. This new cell chemistry greatly reduces the detrimental side reactions between the silicon anode and electrolyte that had plagued cells with the traditional electrolyte. Of the four metal salts tested in cells, the added electrolyte salts with either magnesium (Mg2+) or calcium (Ca2+) cations proved to work the best over hundreds of charge-discharge cycles. The energy densities obtained with these cells surpassed those for comparable cells having graphite chemistry by up to 50%.
"Based on these test results", said Key, "We have every reason to believe that, if silicon anodes ever replace graphite or constitute the anode in more than a few percent concentration, this invention will be part of it and could have far reaching impact."
Linguists track impact of cognitive decline across three decades of one writer's diaries
Analysis examines use of language before and after Alzheimer's diagnosis
University of Toronto
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: September 1992 entries in diary of the late Vivian White. view more
Credit: Courtesy of Sheila White
TORONTO, ON (Canada) - Researchers at the University of Toronto (U of T) specializing in language variation and change have identified a specific relationship between an individual's use of language, and the transition from healthy to a diagnosis of severe dementia.
In a study of diary entries by Toronto resident Vivian White over a 31-year period, the researchers tracked the omission and then inclusion of the first-person pronoun "I" and found the transition occurred around the time she was diagnosed with Alzheimer's disease.
The diaries span the period from 1985 to 2016, from age 60 to 90. Throughout the first 24 years, White omitted a subject up to 76 per cent of the time (e.g. March 23, 1985: "Made cranberry muffins"). In contrast, following her diagnosis with Alzheimer's at age 84, she included the pronoun "I" 100 per cent of the time (e.g. January 1, 2016: "I made cranberry muffins.")
"This suggests that individuals may revert back to a more formal, fundamental writing style when they experience cognitive decline," said Sali Tagliamonte, a professor in the Department of Linguistics in the Faculty of Arts & Science at U of T, and Canada Research Chair in Language Variation and Change.
"Diary writing is a style, and one that is known to have complex constraints in which the subject 'I' is often omitted in specific locations" Tagliamonte said. "It's a learned behavior acquired at a later stage than more basic writing or acquisition of the vernacular language. Research on bilinguals with probable Alzheimer's Disease has shown that languages learned later in life tend to be lost earlier. Our results suggest that the same might be true for styles acquired later in life."
"It is rare to find 97 continuous journals across such a lengthy timespan," said Tagliamonte. "The results show how longitudinal studies can illuminate important aspects of cognitive development and call for further studies of speakers with Alzheimer's disease and other forms of dementia from a language variation and change perspective."
PhD Candidate Katharina Pabst, who collaborated with Tagliamonte on the project, notes that most research in language change has focused on the innovations present in younger speakers, and that comparatively little work has been done on language change across the lifespan and among older adults. However, previous work from related disciplines shows that the use of several linguistic features can and does change in later life.
Since White only began keeping a journal in earnest later in life and while still healthy, the collection provided a perfect opportunity for the researchers to investigate the possibility of a relationship between language change and cognitive decline over time.
Tagliamonte and Pabst will present their findings this month at the annual New Ways of Analyzing Variation conference, held October 10-12 at the University of Oregon. Support for the research was provided by the Social Sciences and Humanities Research Council of Canada and the Canada Research Chairs Program.
11-Oct-2019
This is an electron micrograph of mature alpha-synuclein filaments
Deciphering the early stages of Parkinson's disease is a matter of time
The secret to deciphering elderly disorders is understanding how key proteins organize themselves over time
Instituto Nacional de Ciência e Tecnologia de Biologia Estrutural e Bioimagem (INBEB)
One of the biggest difficulties in treating Parkinson's disease, a progressive neurodegenerative disorder, is the understanding of when it starts. Now, a study published in Communications Biology by researchers at the Federal University of Rio de Janeiro, Brazil, and the University of Virginia School of Medicine, USA, may help to clarify that puzzle. For the first time, scientists observed how variants of the Parkinson's disease-associated protein alpha-synuclein change over time and were able to identify the initial stages of protein aggregates linked to early onset of familial cases of the disease.
The characterization of these structures and their organization is fundamental to identify the early stages of the disease. It is already known that the degeneration of neurons leading to the onset of symptoms such as tremors is linked to alpha-synuclein aggregates, also called amyloid filaments, in the brain. Before forming such filaments, proteins undergo an intermediate stage, the oligomers, which are also present in the brains of Parkinson's patients. However, there is no consensus on what mechanisms trigger aggregation, neuronal cell loss, and degeneration, neither how toxic the aggregates and the oligomers are to the cells. That is what the study tries to understand.
"A person develops Parkinson's disease over his lifetime. The conversion from one protein stage to the other takes place slowly. The intermediate structures and the amyloid aggregates accumulate over time in the brain. So far, we don't know which species cause the symptoms and toxicity to cells," explains the lead author of the research Guilherme A. P. de Oliveira, researcher at the University of Virginia and professor at the UFRJ. "If we understand the protein species forming during the early stages of disease conversion, we can propose new therapies for disease detection before the symptoms appear," he adds.
During the study, scientists compared the conversion of four variants of alpha-synuclein over time, three of them linked to early cases of the disease and the wild-type, present in cases of aging. Then, they observed significant differences in the aggregation processes of each protein and found that oligomers develop at a much greater rate in early onset cases than in aging cases of Parkinson. Such results may explain the early onset of symptoms in patients bearing these variants.
The researchers also found evidence of which protein species are important for the amyloid filaments growth. Moreover, they observed that the filaments have distinct structures depending on the protein mutation from which they originate. "Most intriguing is that not only the initial association steps are different, but also some mature filaments of hereditary cases. These filaments can twist differently depending on which mutation is present," explains Jerson Lima Silva, second co-author and professor at UFRJ.
To perform the study, the researchers used cutting-edge bioimaging techniques. First, they used a fluorescent probe that allowed them to visualize each protein association step over time. Researchers optimized conditions in the wet lab to detect structures that were not previously shown during the course of alpha-synuclein association. Typically, the probe allows scientists to see only two stages: dark, when there is no aggregation, and light, when aggregation is present. Creating the right conditions, Oliveira and Silva managed to handle the luminosity steps and, thus, to observe the intermediate species participating on alpha-synuclein association, which would not appear in other circumstances.
The use of cryo-electron microscopy, a technique awarded with the 2017 Nobel Prize in Chemistry, was also important for the study. By allowing the visualization of biomolecules at near-atomic resolution, the scientists observed the structural organization of the amyloid filaments. According to Oliveira, the possibility of seeing such structures contributes to the development of new treatments against the disease. "By plunge freezing these samples and acquiring advanced electron microscope images, we are able to better understand these wrong protein associations in their native environment and ways to avoid their formation. I am glad that Brazil is now making part of this S&T venture," he celebrates.
Public reporting on aortic valve surgeries has decreased access, study finds
Patients with endocarditis less likely to receive the surgery
Boston Medical Center
Share
Print E-Mail
Boston - Public reporting on aortic valve replacement outcomes has resulted in fewer valve surgeries for people with endocarditis, a new study has found. The researchers looked at national data from people with injection drug use and non-injection drug use-associated endocarditis and found that these patients were 30 percent less likely to receive valve surgery two years after outcomes data become public than before.
Led by researchers at Boston Medical Center's Grayken Center for Addiction and published in Clinical Infectious Diseases, the study results indicate a possible unintended consequence of public reporting of outcomes and the need to ensure that patients who require valve surgery actually receive it.
In 2013, the Society of Thoracic Surgery began publicly reporting the outcomes of aortic valve surgeries for individual surgeons and hospitals, including the risk-adjusted in-hospital and 30-day mortality and 30-day morbidity after aortic valve replacement. Data shows that of the nearly 30,000 aortic valve replacements performed each year, the in-hospital mortality for non-endocarditis replacements is less than 2 percent.
Endocarditis is a serious infection of the heart valve that frequently requires valve replacement surgery, and when indicated this surgery is associated with substantial reduction in mortality. However, valve surgery for endocarditis represents only a fraction of all valve surgeries, and the mortality and surgical complication rates for endocarditis-associated valve procedures is much higher than for those done for other reasons.
"Given the mortality and morbidity related to endocarditis, we wanted to examine if the decision to have hospitals and surgeons make their outcomes data publicly reportable would impact whether or not they would do these life-saving surgeries on patients with endocarditis," said Simeon Kimmel, MD, the study's lead author who is an addiction medicine and infectious disease fellow at Boston Medical Center.
The researchers analyzed data from the National Inpatient Sample, which is a representative sample of US inpatient hospitalizations, from Jan. 2010 through Sept. 2015. They included individuals 18-65 years old who were diagnosed with endocarditis, representing 36,542 injection drug use associated endocarditis admissions and 119,316 non-injection drug use associated endocarditis admissions.
After the implementation of public data reporting for aortic valve replacements, the odds of patients receiving this surgery decreased by four percent per quarter with no difference in injection drug use status. The researchers note that the data appears to show that surgeons may be operating less because they are concerned about having bad outcomes on higher-risk cases that would then be publicly reportable.
"The intentions of making this data publicly available were to promote transparency and improve the quality of care, but our study suggests that it may have had the unintended consequence of reducing access to valve replacement surgery, a potentially life-saving procedure for people with endocarditis," added Kimmel.
The authors propose that further studies be conducted to look at the impact of mortality over the long term to better understand the impact of these changes. In addition, they suggest that changes in how endocarditis is risk-adjusted in publicly reported data might help ensure greater access to this surgery for patients with endocarditis.
Repurposed quinacrine synergizes with cisplatin, reducing the effective dose required for treatment
The authors have developed the Accelera TED platform to repurpose drugs for HNSCC treatment; using in vitro assays and in vivo models
Impact Journals LLC
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Figure 1: . (A) Confirmatory screen for hits using CAL27 and VU147 cells exposed to various repurposed drugs at Cmax (or lower), with and without cisplatin (n = 3). (B)... view more
The authors have developed the Accelera TED platform to repurpose drugs for HNSCC treatment; using in vitro assays and in vivo models.
Screening a library of clinically-approved drugs identified the anti-malarial agent quinacrine as a candidate, which significantly reduced viability in a concentration dependent manner in five HNSCC cell lines and in six primary HNSCC samples.
In vivo, daily treatment with 100 mg/kg oral quinacrine plus cisplatin significantly inhibited tumor outgrowth, extending median time to reach maximum tumor volume from 20 to 32 days versus control, and from 28 to 32 days versus 2 mg/kg cisplatin alone.
Dr. Hisham Mehanna and Dr. Nikolaos Batis said, "Head and neck squamous cell carcinoma is a debilitating disease comprising 600,000 cases per year worldwide"
Due to the high morbidity of current treatments, quality of life is severely impaired, with evident unmet need necessitating more effective therapies with lower toxicity; especially as recent studies examining cetuximab as a less toxic alternative for low risk human papillomavirus positive HNSCC have shown similar toxicity, and lower efficacy compared to cisplatin.
On initial screening against HNSCC cell lines, quinacrine was identified as a potential hit.
Quinacrine is a potent late-stage autophagy inhibitor and has been shown to prime cells to the effects of cisplatin via apoptosis in cervical and endometrial cancer.
Further mechanistic insights have been demonstrated in HNSCC whereby quinacrine was able to restore the function of the tumor suppressive protein, tumor protein 53, leading to enhanced capabilities of initiating apoptotic cell death following DNA damage with cisplatin chemotherapy; Moreover, quinacrine treatment has been shown to suppress phosphoinositide 3-kinase, protein kinase B, mechanistic target of rapamycin and nuclear factor kappa-light-chain-enhancer of activated B cells pathways.
The Mehanna/Batis Research team concluded, "Notably, our study is the first to demonstrate that quinacrine is able to reduce tumor burden in mice bearing HNSCC xenograft tumors, using concentrations that are clinically relevant."
Expert second opinion improves reliability of melanoma diagnoses
University of California - Los Angeles Health Sciences
Share
Print E-Mail
Los Angeles - Getting a reliable diagnosis of melanoma can be a significant challenge for pathologists. The diagnosis relies on a pathologist's visual assessment of biopsy material on microscopic slides, which can often be subjective. Of all pathology fields, analyzing biopsies for skin lesions and cancers has one of the highest rates of diagnostic errors, which can affect millions of people each year.
Now, a new study led by UCLA researchers, have found that obtaining a second opinion from pathologists who are board certified or have fellowship training in dermatopathology can help improve the accuracy and reliability of diagnosing melanoma, one of the deadliest and most aggressive forms of skin cancer.
"A diagnosis is the building block on which all other medical treatment is based," said Dr. Joann Elmore, a professor of medicine at the David Geffen School of Medicine at UCLA and researcher at the UCLA Jonsson Comprehensive Cancer Center. "On the other end of these biopsies are real patients: patients answering the late-night, anxiety-inducing phone calls when we inform them of their diagnosis; patients undergoing invasive surgeries; patients weighing their next clinical steps. All patients deserve an accurate diagnosis. Unfortunately the evaluation and diagnosis of skin biopsy specimens is challenging with a lot of variability among physicians."
In the study, led by Elmore and her colleagues, the value of a second opinion by general pathologists and dermatopathologists were evaluated to see if it helped improve the correct diagnostic classification.
To evaluate the impact of obtaining second opinions, the team used samples from the Melanoma Pathology Study, which comprises of 240 skin biopsy lesion samples. Among the 187 pathologists who examined the cases, 113 were general pathologists and 74 were dermatopathologists.
The team studied misclassification rates, which is how often the diagnoses of practicing US pathologists disagreed with a consensus reference diagnosis of three pathologists who had extensive experience in evaluating melanocytic lesions. The team found that the misclassification of these lesions yielded the lowest rates when first, second and third reviewers were sub-specialty trained dermatopathologists. Misclassification was the highest when reviewers were all general pathologists who lacked the subspecialty training.
"Second opinions in clinical medicine can increase accuracy, which is a win-win for patients and providers - better diagnoses lead to better outcomes and efficient use of our healthcare expenditures. This is definitely something that healthcare providers should consider when faced with these complex and challenging to diagnose skin biopsies. Our results show having a second opinion by an expert with subspecialty training provides value in improving the accuracy of the diagnosis, which is imperative to help guide patients to the most effective treatments," said Elmore, who is also the director of the UCLA National Clinician Scholars Program.
"While these finding suggest that second opinions rendered by dermatopathologists improve overall reliability of diagnosis of melanocytic lesions, they do not eliminate or substantially reduce misclassification."
Elmore is now studying the potential impact of computer machine learning as a tool to improve diagnostic accuracy. She is partnering with computer scientists who specialize in computer visualization of complex image information, as well as leading pathologists around the globe to develop an artificial intelligence (AI)-based diagnostic system.
According to a report by the National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine, improvements in the diagnostic process are a "moral, professional, and public health imperative."
Study questions 'cross-transfer' benefits of special exercise technique
Ohio University
Share
Print E-Mail
A paper recently published by researchers from the Ohio Musculoskeletal and Neurological Institute (OMNI) at the Heritage College of Osteopathic Medicine questions the effectiveness of a patented exercise system for relieving lower back pain.
In a study published in the September issue of Medicine & Science in Sports & Exercise, OMNI Director Brian Clark, Ph.D. and a team of researchers tested whether blood-flow restriction (BFR) exercise, known in a patented version as Kaatsu, might help relieve non-specific lower back pain.
BFR exercise uses a device to reduce blood supply to a set of muscles that are being exercised. Somehow, this enhances the effects of the exercise on muscle size and strength.
Some research has suggested that this benefit also extends to muscles not subjected to BFR. If BFR is used on one set of muscles, it can reportedly enhance the impact of non-BFR exercise on others, possibly through some type of body-wide endocrine system effect. Clark and his co-authors wanted to see if this reported "cross-transfer of effect" would work to improve the impact of low-load, non-BFR exercise on the trunk extensor (TE) muscles, which often suffer from wasting in people who have non-specific lower back pain.
Using 30 young adults as study subjects, the researchers compared the effects of non-BFR exercise on the TE muscles, with and without an immediately prior session of BFR exercise on limb muscles. They found no significant difference - a finding which, they acknowledge, is at odds with the positive conclusions reported in a number of previous studies.
"The take-away was that our finding was contradictory to the vast majority of the literature," Clark said. He added, however, that "that did not surprise me at all." As the paper points out, the new study "implemented rigorous control measures that are lacking from much of the previous work on BFR exercise," which were meant to minimize possible bias effects. These included "blinding" the experiment's outcome assessors, data analysts and statistician, so they did not know whether data they looked at came from the test or control group.
"Research with negative findings, while sometimes not given the attention of positive results, is essential to the field," noted Darlene Berryman, Ph.D., R.D., L.D., associate dean for research and innovation at the Heritage College. "This study should be a healthy spur to further investigate the benefits of blood-flow restriction in exercise."
The researchers recruited healthy older participants to two groups according to their history of tea drinking frequency and investigated both functional and structural networks to reveal the role of tea drinking on brain organization.
Impact Journals LLC
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Figure 1. Comparisons of neuropsychological and cognitive measures between the tea drinking group (T) and non-tea drinking group (NT). A non-parametric permutation test was used to evaluate the significance level... view more
The researchers recruited healthy older participants to two groups according to their history of tea drinking frequency and investigated both functional and structural networks to reveal the role of tea drinking on brain organization.
The suppression of hemispheric asymmetry in the structural connectivity network was observed as a result of tea drinking.
The authors did not observe any significant effects of tea drinking on the hemispheric asymmetry of the functional connectivity network.
Dr. Junhua Li and Dr. Lei Feng said, "Tea has been a popular beverage since antiquity, with records referring to consumption dating back to the dynasty of Shen Nong (approximately 2700 BC) in China."
Tea is consumed in diverse ways, with brewed tea and products with a tea ingredient extremely prevalent in Asia, especially in China and Japan.
Although individual constituents of tea have been related to the roles of maintaining cognitive abilities and preventing cognitive decline, a study with behavioural and neurophysiological measures showed that there was a degraded effect or no effect when a constituent was administered alone and a significant effect was observed only when constituents were combined.
The superior effect of the constituent combination was also demonstrated in a comparative experiment that suggested that tea itself should be administered instead of tea extracts; a review of tea effects on the prevention of Alzheimers disease, found that the neuroprotective role of herbal tea was apparent in eight out of nine studies.
It is worth noting that the majority of studies thus far have evaluated tea effects from the perspective of neurocognitive and neuropsychological measures, with direct measurement of brain structure or function less-well represented in the extant literature.
These studies focusing on brain regional alterations did not ascertain tea effects on interregional interactions at the level of the entire brain.
The Li/Feng Research team concluded, "In summary, our study comprehensively investigated the effects of tea drinking on brain connectivity at both global and regional scales using multi-modal imaging data and provided the first compelling evidence that tea drinking positively contributes to brain structure making network organization more efficient."
Sox9 reshapes the biliary tree in Alagille syndrome
Baylor College of Medicine
Share
Print E-Mail
Alagille syndrome is a rare pediatric genetic disorder that can affect the liver, heart, kidneys, blood vessels, skeleton and other tissues. One major characteristic of this condition is abnormalities in the ducts that carry bile, a yellowish liquid that helps to digest fats, from the liver to the gallbladder and the small intestine. The number of bile ducts is severely decreased in Alagille syndrome patients, which diminishes the normal flow of bile, a condition called cholestasis. As a result, bile builds up in the liver, causing scarring that prevents the liver from working properly to perform its metabolic functions and to eliminate waste from the bloodstream.
Alagille syndrome is one of the interests of the laboratory of Dr. Hamed Jafar-Nejad, associate professor of molecular and human genetics at Baylor College of Medicine.
"The severity of the disorder varies among affected individuals, even within the same family," explains Jafar-Nejad. "For instance, some patients with childhood cholestasis will require a liver transplant, whereas others will show significant improvement by elementary school age, eliminating the need for a transplant." What mediates this variability is not known. In this study, Jafar-Nejad and his colleagues uncovered new genetic clues that contribute to our understanding of the extreme variability in the
expression of this childhood liver disease and also offer a potential therapeutic avenue for this condition.
The road to discovery
The majority of the Alagille syndrome cases result from loss of one copy of the JAG1 gene, which produces the protein jagged 1 (JAG1), an important component of the Notch signaling pathway. The Notch pathway is involved in the communication between neighboring cells during embryonic development and adult tissue maintenance. Signals from the Notch pathway influence how the cells build body structures in the developing embryo. Therefore, mutations in JAG1 or other components of the Notch pathway lead to errors during development that affect the bile ducts and other organs.
Several years ago, the Jafar-Nejad laboratory established a genetically representative mouse model for Alagille syndrome liver disease. In this model, loss of one copy of Jag1 (Jag1+/-) results in impaired bile duct development and subsequent cholestasis in mice.
In the current study, the group used this model to identify genetic modifiers of the liver disease in order to explain its variability and to identify a potential therapeutic target. The researchers found that the expression level of the transcription factor SOX9 broadly modified the severity of Alagille syndrome liver disease in mice.
According to previous work by others, complete loss of Sox9 gene in normal mouse liver had only transitory effects on bile duct development, with no long-term consequences. In the current study, the researchers found that changing Sox9 gene expression in livers of Alagille syndrome mice (Jag1+/-) profoundly affected liver pathology.
"It was amazing to see just how sensitive the Jag1+/- mice were to the levels of Sox9," said first author Joshua Adams, an M.D./Ph.D. student in the Program in Developmental Biology at Baylor. "Even the loss of only one copy of Sox9 gene in our Alagille syndrome mouse model significantly worsened liver disease, showing evidence of enhanced inflammation and liver fibrosis."
In addition, the researchers looked into the structure of the bile ducts in collaboration with Dr. Stacey Huppert's group at Cincinnati Children's Hospital Medical Center. Ink injection into the common bile duct showed defects in the 3D structure of the biliary tree in one-month-old Jag1+/- animals, but this and other Jag1+/- liver characteristics improved with age. On the other hand, animals simultaneously lacking one copy of the Jag1 gene (Jag+/-) and one copy of the Sox9 gene had a more severe condition at one month of age and did not exhibit improvement in their liver condition with age. Removing both copies of Sox9 gene in the livers of Jag1+/- animals resulted in 50 percent lethality by three weeks of age, further highlighting the critical role of SOX9 in the severity of Jag1+/- liver disease.
"Our data suggest that alterations in the expression level of one gene (Sox9) in Jag1+/? animals can generate the full range of variations in liver disease presentation observed in human patients, from those with early cholestasis who later show significant improvement, all the way to patients who require a liver transplant at a relatively young age," said Jafar-Nejad.
When Jafar-Nejad, Adams and their colleagues studied liver samples from Alagille syndrome patients, they found evidence that SOX9 may also be associated with the variability observed in the human condition. They discovered that the expression level and pattern of SOX9 in the liver is quite different in Alagille syndrome patients with mild liver disease compared to Alagille syndrome patients with severe liver disease.
Sox9 may be a therapeutic target in Alagille syndrome
The discovery that reducing the levels of Sox9 increased the severity of the liver condition in the Alagille syndrome mouse model led the researchers to test the possibility that increasing Sox9 levels might improve liver condition in this model.
"It was exciting to find that increasing Sox9 levels in the livers of Alagille syndrome mice greatly improved biliary duct development without resulting in tumor formation, even after one year," Adams said. "By further understanding why Jag1-deficient livers are so sensitive to Sox9 and how increased Sox9 gene expression improves biliary development without negative effects on the liver, we can get closer to developing a therapeutic strategy for Alagille syndrome liver disease."
Researchers rediscover fast-acting German insecticide lost in the aftermath of WWII
Fluoridated DDT swiftly kills disease-carrying mosquitoes, which may lower its environmental impact -- but its history is alarming
New York University
Share
Print E-Mail
A new study in the Journal of the American Chemical Society explores the chemistry as well as the complicated and alarming history of DFDT, a fast-acting insecticide.
"We set out to study the growth of crystals in a little-known insecticide and uncovered its surprising history, including the impact of World War II on the choice of DDT--and not DFDT--as a primary insecticide in the 20th century," said Bart Kahr, professor of chemistry at New York University and one of the study's senior authors.
Discovering solid forms of DFDT
Kahr and fellow NYU chemistry professor Michael Ward study the growth of crystals, which two years ago led them to discover a new crystal form of the notorious insecticide DDT. DDT is known for its detrimental effect on the environment and wildlife. But the new form developed by Kahr and Ward was found to be more effective against insects--and in smaller amounts, potentially minimizing its environmental impact.
In continuing to explore the crystal structure of insecticides, the research team began studying fluorinated forms of DDT, swapping out chlorine atoms for fluorine. They prepared two solid forms of the compound--a monofluoro and a difluoro analog--and tested them on fruit flies and mosquitoes, including mosquito species that carry malaria, yellow fever, Dengue, and Zika. The solid forms of fluorinated DDT killed insects more quickly than did DDT; the difluoro analog, known as DFDT, killed mosquitoes two to four times faster.
"Speed thwarts the development of resistance," said Ward, a senior author on the study. "Insecticide crystals kill mosquitoes when they are absorbed through the pads of their feet. Effective compounds kill insects quickly, possibly before they are able to reproduce."
The researchers also made a detailed analysis of the relative activities of the solid-state forms of fluorinated DDT, noting that less thermodynamically stable forms--in which the crystals liberate molecules more easily--were more effective at quickly killing insects.
The forgotten history of DFDT
In addition to their chemical analyses, the researchers sought to determine if their creation had a precedent. In doing so, they uncovered a rich and unsettling backstory for DFDT. Through historical documents, they learned that DFDT was created as an insecticide by German scientists during World War II and was used by the German military for insect control in the Soviet Union and North Africa, in parallel with the use of DDT by American armed forces in Europe and the South Pacific.
In the post-war chaos, however, DFDT manufacturing came to an abrupt end. Allied military officials who interviewed Third Reich scientists dismissed the Germans' claims that DFDT was faster and less toxic to mammals than DDT, calling their studies "meager" and "inadequate" in military intelligence reports.
In his 1948 Nobel Prize address for the discovery of the insect-killing capability of DDT, Paul Müller noted that DFDT should be the insecticide of the future, given that it works more quickly than does DDT. Despite this, DFDT has largely been forgotten and was unknown to contemporary entomologists with whom the NYU researchers consulted.
"We were surprised to discover that at the outset DDT had a competitor which lost the race because of geopolitical and economic circumstances, not to mention its connection to the German military, and not necessarily because of scientific considerations. A faster, less persistent insecticide, as is DFDT, might have changed the course of the 20th century; it forces us to imagine counterfactual science histories," said Kahr.
The need for new insecticides
Mosquito-borne diseases such as malaria--which kills a child every two minutes--are major public health concerns, resulting in 200 million illnesses annually. Newer diseases like Zika may pose growing threats to health in the face of a changing climate.
Mosquitoes are increasingly resistant and are failing to respond to the pyrethroid insecticides built into bed nets. Public health officials are concerned and have reconsidered the use of DDT--which has been banned for decades in much of the world with the exception of selective use for malaria control--but its controversial history and environmental impact encourage the need for new insecticides.
"While more research is needed to better understand the safety and environmental impact of DFDT, we, along with the World Health Organization, recognize the urgent need for new, fast insecticides. Not only are fast-acting insecticides critical for fighting the development of resistance, but less insecticide can be used, potentially reducing its environmental impact," said Ward.
Public reporting on aortic valve surgeries has decreased access, study finds
Patients with endocarditis less likely to receive the surgery
Boston Medical Center
Share
Print E-Mail
Boston - Public reporting on aortic valve replacement outcomes has resulted in fewer valve surgeries for people with endocarditis, a new study has found. The researchers looked at national data from people with injection drug use and non-injection drug use-associated endocarditis and found that these patients were 30 percent less likely to receive valve surgery two years after outcomes data become public than before.
Led by researchers at Boston Medical Center's Grayken Center for Addiction and published in Clinical Infectious Diseases, the study results indicate a possible unintended consequence of public reporting of outcomes and the need to ensure that patients who require valve surgery actually receive it.
In 2013, the Society of Thoracic Surgery began publicly reporting the outcomes of aortic valve surgeries for individual surgeons and hospitals, including the risk-adjusted in-hospital and 30-day mortality and 30-day morbidity after aortic valve replacement. Data shows that of the nearly 30,000 aortic valve replacements performed each year, the in-hospital mortality for non-endocarditis replacements is less than 2 percent.
Endocarditis is a serious infection of the heart valve that frequently requires valve replacement surgery, and when indicated this surgery is associated with substantial reduction in mortality. However, valve surgery for endocarditis represents only a fraction of all valve surgeries, and the mortality and surgical complication rates for endocarditis-associated valve procedures is much higher than for those done for other reasons.
"Given the mortality and morbidity related to endocarditis, we wanted to examine if the decision to have hospitals and surgeons make their outcomes data publicly reportable would impact whether or not they would do these life-saving surgeries on patients with endocarditis," said Simeon Kimmel, MD, the study's lead author who is an addiction medicine and infectious disease fellow at Boston Medical Center.
The researchers analyzed data from the National Inpatient Sample, which is a representative sample of US inpatient hospitalizations, from Jan. 2010 through Sept. 2015. They included individuals 18-65 years old who were diagnosed with endocarditis, representing 36,542 injection drug use associated endocarditis admissions and 119,316 non-injection drug use associated endocarditis admissions.
After the implementation of public data reporting for aortic valve replacements, the odds of patients receiving this surgery decreased by four percent per quarter with no difference in injection drug use status. The researchers note that the data appears to show that surgeons may be operating less because they are concerned about having bad outcomes on higher-risk cases that would then be publicly reportable.
"The intentions of making this data publicly available were to promote transparency and improve the quality of care, but our study suggests that it may have had the unintended consequence of reducing access to valve replacement surgery, a potentially life-saving procedure for people with endocarditis," added Kimmel.
The authors propose that further studies be conducted to look at the impact of mortality over the long term to better understand the impact of these changes. In addition, they suggest that changes in how endocarditis is risk-adjusted in publicly reported data might help ensure greater access to this surgery for patients with endocarditis.
Study questions 'cross-transfer' benefits of special exercise technique
Ohio University
Share
Print E-Mail
A paper recently published by researchers from the Ohio Musculoskeletal and Neurological Institute (OMNI) at the Heritage College of Osteopathic Medicine questions the effectiveness of a patented exercise system for relieving lower back pain.
In a study published in the September issue of Medicine & Science in Sports & Exercise, OMNI Director Brian Clark, Ph.D. and a team of researchers tested whether blood-flow restriction (BFR) exercise, known in a patented version as Kaatsu, might help relieve non-specific lower back pain.
BFR exercise uses a device to reduce blood supply to a set of muscles that are being exercised. Somehow, this enhances the effects of the exercise on muscle size and strength.
Some research has suggested that this benefit also extends to muscles not subjected to BFR. If BFR is used on one set of muscles, it can reportedly enhance the impact of non-BFR exercise on others, possibly through some type of body-wide endocrine system effect. Clark and his co-authors wanted to see if this reported "cross-transfer of effect" would work to improve the impact of low-load, non-BFR exercise on the trunk extensor (TE) muscles, which often suffer from wasting in people who have non-specific lower back pain.
Using 30 young adults as study subjects, the researchers compared the effects of non-BFR exercise on the TE muscles, with and without an immediately prior session of BFR exercise on limb muscles. They found no significant difference - a finding which, they acknowledge, is at odds with the positive conclusions reported in a number of previous studies.
"The take-away was that our finding was contradictory to the vast majority of the literature," Clark said. He added, however, that "that did not surprise me at all." As the paper points out, the new study "implemented rigorous control measures that are lacking from much of the previous work on BFR exercise," which were meant to minimize possible bias effects. These included "blinding" the experiment's outcome assessors, data analysts and statistician, so they did not know whether data they looked at came from the test or control group.
"Research with negative findings, while sometimes not given the attention of positive results, is essential to the field," noted Darlene Berryman, Ph.D., R.D., L.D., associate dean for research and innovation at the Heritage College. "This study should be a healthy spur to further investigate the benefits of blood-flow restriction in exercise."
Study questions 'cross-transfer' benefits of special exercise technique
Ohio University
Share
Print E-Mail
A paper recently published by researchers from the Ohio Musculoskeletal and Neurological Institute (OMNI) at the Heritage College of Osteopathic Medicine questions the effectiveness of a patented exercise system for relieving lower back pain.
In a study published in the September issue of Medicine & Science in Sports & Exercise, OMNI Director Brian Clark, Ph.D. and a team of researchers tested whether blood-flow restriction (BFR) exercise, known in a patented version as Kaatsu, might help relieve non-specific lower back pain.
BFR exercise uses a device to reduce blood supply to a set of muscles that are being exercised. Somehow, this enhances the effects of the exercise on muscle size and strength.
Some research has suggested that this benefit also extends to muscles not subjected to BFR. If BFR is used on one set of muscles, it can reportedly enhance the impact of non-BFR exercise on others, possibly through some type of body-wide endocrine system effect. Clark and his co-authors wanted to see if this reported "cross-transfer of effect" would work to improve the impact of low-load, non-BFR exercise on the trunk extensor (TE) muscles, which often suffer from wasting in people who have non-specific lower back pain.
Using 30 young adults as study subjects, the researchers compared the effects of non-BFR exercise on the TE muscles, with and without an immediately prior session of BFR exercise on limb muscles. They found no significant difference - a finding which, they acknowledge, is at odds with the positive conclusions reported in a number of previous studies.
"The take-away was that our finding was contradictory to the vast majority of the literature," Clark said. He added, however, that "that did not surprise me at all." As the paper points out, the new study "implemented rigorous control measures that are lacking from much of the previous work on BFR exercise," which were meant to minimize possible bias effects. These included "blinding" the experiment's outcome assessors, data analysts and statistician, so they did not know whether data they looked at came from the test or control group.
"Research with negative findings, while sometimes not given the attention of positive results, is essential to the field," noted Darlene Berryman, Ph.D., R.D., L.D., associate dean for research and innovation at the Heritage College. "This study should be a healthy spur to further investigate the benefits of blood-flow restriction in exercise."
The researchers recruited healthy older participants to two groups according to their history of tea drinking frequency and investigated both functional and structural networks to reveal the role of tea drinking on brain organization.
Impact Journals LLC
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Figure 1. Comparisons of neuropsychological and cognitive measures between the tea drinking group (T) and non-tea drinking group (NT). A non-parametric permutation test was used to evaluate the significance level... view more
The researchers recruited healthy older participants to two groups according to their history of tea drinking frequency and investigated both functional and structural networks to reveal the role of tea drinking on brain organization.
The suppression of hemispheric asymmetry in the structural connectivity network was observed as a result of tea drinking.
The authors did not observe any significant effects of tea drinking on the hemispheric asymmetry of the functional connectivity network.
Dr. Junhua Li and Dr. Lei Feng said, "Tea has been a popular beverage since antiquity, with records referring to consumption dating back to the dynasty of Shen Nong (approximately 2700 BC) in China."
Tea is consumed in diverse ways, with brewed tea and products with a tea ingredient extremely prevalent in Asia, especially in China and Japan.
Although individual constituents of tea have been related to the roles of maintaining cognitive abilities and preventing cognitive decline, a study with behavioural and neurophysiological measures showed that there was a degraded effect or no effect when a constituent was administered alone and a significant effect was observed only when constituents were combined.
The superior effect of the constituent combination was also demonstrated in a comparative experiment that suggested that tea itself should be administered instead of tea extracts; a review of tea effects on the prevention of Alzheimers disease, found that the neuroprotective role of herbal tea was apparent in eight out of nine studies.
It is worth noting that the majority of studies thus far have evaluated tea effects from the perspective of neurocognitive and neuropsychological measures, with direct measurement of brain structure or function less-well represented in the extant literature.
These studies focusing on brain regional alterations did not ascertain tea effects on interregional interactions at the level of the entire brain.
The Li/Feng Research team concluded, "In summary, our study comprehensively investigated the effects of tea drinking on brain connectivity at both global and regional scales using multi-modal imaging data and provided the first compelling evidence that tea drinking positively contributes to brain structure making network organization more efficient."
Adipogenic progenitors keep muscle stem cells young
In adult skeletal muscle, loss of myofiber integrity caused by mechanical injuries or diseases are repaired by resident muscle stem cells, called satellite cells, which promptly exit from quiescence after disruption of muscle architecture to expand, diffe
Impact Journals LLC
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Figure 1. Fibro-adipogenic progenitors (FAPs) dynamically cross-talk with the muscle stem cell (MuSC) niche to regulate regeneration and ECM/lipid turnover in different patho-physiologcal cues. (A) FAPs have distinct cellular fates... view more
In adult skeletal muscle, loss of myofiber integrity caused by mechanical injuries or diseases are repaired by resident muscle stem cells, called satellite cells, which promptly exit from quiescence after disruption of muscle architecture to expand, differentiate and drive tissue regeneration.
Dr. Jerome N. Feige from Nestlé Research, EPFL Innovation Park, Lausanne, Switzerland said, "Fibro/adipogenic progenitors constitute a population of interstitial mesenchymal cells in skeletal muscle which are devoid of myogenic potential, but support muscle stem cell commitment and can differentiate to the adipogenic or fibrotic lineages."
Thus, FAPs are active regulators of cellular communication in skeletal muscle niche where they directly control tissue homeostasis and regeneration by supporting Mu SCs and myofibers.
In a recent study, the author's lab investigated how aging influences the fate of FAPs and their cross-talk with Mu SCs to regulate the balance between myogenesis, adipogenesis and fibrosis in skeletal muscle.
Interestingly, aged FAPs fail to efficiently amplify following muscle injury and aging alters the capacity of FAPs to support Mu SC amplification and commitment.
Both in-vitro co-culture and in-vivo transplantation of young FAPs rejuvenate aged Mu SC function, but aged FAPs lose the ability to efficiently support Mu SCs.
The Feige Research team concluded, "FAPs are also likely a heterogeneous population and the clonal selection of different fates of FAPs during aging suggests a differential effect of age on distinct subpopulations.
While Tie2- expressing FAPs predominantly reside within neonatal and adult homeostatic muscles, another injury-activated subpopulation of FAPs characterized by Vcam1 expression is associated with regeneration of injured myofibers."
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.