Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã... thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”.
Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là ”phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” - cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.
Thực tế đó là gì? Cũng giản đơn và dễ dàng như tòa án Hải Phòng xử phạt tù anh em Đoàn Văn Vươn là nạn nhân, và phạt tù treo đám thủ phạm tép riu, còn đám đầu sỏ chủ mưu thì hoàn toàn vô can, trong vụ cưỡng chế tài sản nhân dân mà chính Thủ tướng kết luận “hoàn toàn trái pháp luật”.
Nếu các anh không thua cuộc chiến thì bộ đội cụ Hồ chúng tôi đâu có thu được hàng tỷ khối chiến lợi phẩm mang về làm náo nức nhân dân Miền Bắc, trong đó có cậu bé 13 tuổi quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh sau này là nhà báo Huy Đức ghi lại:
“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày [1], Thép Đã Tôi Thế Đấy [2]... Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”.
Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.” (Bên Thắng Cuộc).
Còn chính bộ đội cụ Hồ như chiến sĩ gái Dương Thu Hương háo hức bao nhiêu trên đường giải phóng Miền Nam thì sau 30/4/75, khi vào đến Sài Gòn đã... Ta thử đọc trích đoạn cuộc trao đổi giữa cô với nhà báo Đinh Quang Anh Thái (*)
- Đinh Quang Anh Thái: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó?
- Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.
Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc.
Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette.
Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn.
Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải. ”
Rồi chuyện ông bác sĩ bộ đội cụ Hồ mà anh gặp tại nhà người bạn chiến hữu của anh ở Tân Định ngay sau khi mới giải phóng Sài Gòn trông như người ngoài hành tinh mới đến, cứ ngơ ngơ ngáo ngáo, bảo “có vào đây mới biết đồng bào Miền Bắc ngoài đó quá khốn khổ.
Anh Chổi ơi, vài mẩu chuyện trên đây là của vài ba cá nhân lẻ tẻ nhưng là đại diện cho tâm trạng chung của tuyệt đại bộ phận đoàn quân “đại thắng mùa xuân” ngay sau khi mèo mù vớ được cá rán Miền Nam đó anh. Bây giờ xin tạm thôi những mẩu chuyện cá nhân để nhìn vào tổng thể sờ sờ trước mắt.
Giá như ngày đó Mỹ không chịu cút, Ngụy không chịu nhào và các anh cứ tiếp tục giữ vững Miền Nam với chế độ Tư Bản một mình thì chúng tôi, tức Miền Bắc, cứ vẫn xếp hàng cả ngày và chỉ được tiêu chuẩn “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi”,
Ba Ếch cứ tiếp tục trốn chui trốn nhủi trong rừng tràm U Minh, đêm du kích ngày chích mông, chứ làm gì có nhà thờ họ hoành tráng lừng lựng giữa Rạch Giá như bây giờ.
Nói chung không nhờ Miền Nam các anh thua thì làm gì chúng tôi được nếm mùi bã Tư bản để được như ngày nay. Không nhờ các anh bỏ của chạy lấy người thì của đâu cho Cách Mạng lấy làm giàu như bây giờ. Không nhờ các anh thua cuộc thì ngày nay chắc chắn Miền Bắc chúng tôi còn tệ hơn nước anh em XHCN Bắc Triều Tiên của cậu Giun Kim Ủn bây giờ.
Nói túm lại, kỷ niệm ngày 30 tháng Tư 75 là để mừng cho Miền Bắc chúng tôi được giải phóng, chứ Miền Nam các anh thì bị một vố phỏng giai... nhớ đời này qua đời khác.
ở đời này, anh còn lạ gì, khốn nạn của người này có khi là hạnh phúc của người kia. Thôi thì Miền Nam các anh đã hưởng lâu rồi, nhiều rồi, nhường cho đồng bào Miền Bắc chúng tôi được giải phóng một ti, cho công bằng.
Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ.
Trân trọng chào Anh,
Một cựu bộ đội cụ Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975.
TB. Tôi bị “Ngụy hóa” đến nỗi văn phong của tôi cũng bị... Chổi hóa luôn!
Lúc Thương, Bao Nhiêu Cũng Được. Hết Thương Rồi, Nói Ngược Nói Xuôi
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Tâm buồn chẳng nói lời nào,
Tâm vui lời nói ngọt ngào dễ thương.
Có thương yêu, bao nhiêu cũng được,
Hết thương rồi, nói ngược nói xuôi.
Lời nói dễ mích lòng nhau.
Lời nói chân thật ngọt ngào tình thương.
Có tình thương nói gì cũng dễ.
Hết thương rồi bất kể nói chi.
Nói nhiều tâm khởi sân si.
Bằng như không nói từ bi ai tường.
-oOo-
Trong cuộc sống hằng ngày, để có thể hiểu nhau biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến văn hóa, con người dùng ngôn ngữ, tức là: chữ viết và tiếng nói. Ðôi khi, không cùng chữ viết, cũng không cùng tiếng nói, nhưng con người cũng có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu, cử chỉ, nét mặt, thái độ, hay giọng nói. Một vấn đề lớn đối với các gia đình người Việt sống ở hải ngoại chính là: Vấn Ðề Ngôn Ngữ. Ðối với thế hệ trước, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, cho nên rành rẽ rõ ràng, còn tiếng địa phương thì không thông thạo.
Ðối với thế hệ sau, tiếng địa phương thì thông thạo, tuy tiếng Việt cũng là tiếng mẹ đẻ, nhưng nói thì vấp váp, gượng gạo, ngọng nghịu. Tại sao như vậy? Bởi vì thế hệ sau hấp thụ văn hóa tây phương, tiếp xúc với xã hội bên ngoài nhiều hơn, còn trong gia đình, thế hệ trước muốn tập nói tiếng địa phương với thế hệ sau, cho nên thế hệ trước quên lửng chuyện dạy dỗ tiếng Việt cho thế hệ sau, dù người mẹ đẻ là người Việt. Hai thế hệ nói hai thứ tiếng khác nhau, tiếng Việt và tiếng địa phương, cho nên không thể thông cảm nhau dễ dàng. Chuyện không cảm thông nhau thường đưa tới việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức nhiên cuộc sống phiền não khổ đau, không sao tránh khỏi được.
Hai người nói hai thứ tiếng khác nhau, thực khó cảm thông nhau như vậy. Còn hai người cùng nói một thứ tiếng thì sao, có dễ cảm thông nhau chăng, hoặc là ngược lại, có dễ đụng chạm nhau chăng? Tại sao như vậy? Bởi vì, tuy cùng nói một thứ tiếng, nhưng tùy theo lời nói, tùy theo giọng nói, hay tùy theo cách nói, hai người có thể cảm thông nhau, hoặc là đụng chạm nhau. Lời nói có ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt đời sống của mọi người trên thế gian này. Dù quen biết trước, hay chưa quen biết, khi gặp mặt nhau, con người thường hay: chào hỏi với nhau. Một lời chào hỏi, khéo léo lịch thiệp, vui vẻ cởi mở, có thể khởi đầu, một mối quan hệ, tốt đẹp lâu dài.
Có người mở miệng nói, dù chỉ một lời, người nào cũng ưa, cũng thương cũng mến, cũng có cảm tình, cũng tin tưởng được, cũng đều nghe theo. Cũng có người mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin, cũng không ai nghe, cũng không ai ưa, cũng không ai thích. Có những lời nói đem lại sự mát dịu trong tâm hồn người nghe. Người nghe có cảm giác như vừa uống được một ngụm nước cam lồ tươi mát. Cũng có những lời nói khiến người nghe phải đi xức dầu cù là, hoặc là, phải uống thuốc nhức đầu, có khi ngất xỉu, hay là, nghỉ thở luôn!
Như vậy, chúng ta đồng ý với nhau rằng: lời nói rất là quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn lao, trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta. Nếu người nào cảm thấy cuộc đời nhiều đau khổ, lắm thương đau, không vui vẻ, chẳng bình yên, tức là chính người đó cần phải điều chỉnh lại lời nói, cho vừa dễ nghe, cho vừa dễ thương. Tại sao như vậy? Bởi vì, chính người đó cũng muốn nghe những lời nói dễ nghe dễ thương như vậy. Hoặc là, người đó cần phải điều chỉnh lại âm thanh, cho vừa đủ nghe, để khỏi làm phiền lòng người khác, đang cần sự yên tĩnh, để tâm hồn được thanh tịnh, hay để nghỉ ngơi được thoải mái.
Một nhà sư thông thái đã sửa sai một lái buôn "Đừng có suy diễn mộng tưởng. Ông trời thực ra rất công bằng với chúng ta" (Zhang Cuiying)
Đôi khi những khổ đau lớn nhất lại tạo ra một tinh thần lành mạnh
Vào đời nhà Thanh, Triệu Đức Phương, cha của ba người con trai, có một cuộc sống rất sung túc. Ông cảm thấy rất may mắn khi ba đứa con của mình đều đã thành gia thất.
Tuy nhiên, vào lễ mừng thọ 60 của ông Triệu, ông đã thú nhận với ba người con của mình rằng khi mới bắt đầu khởi nghiệp, ông đã cố ý cân gian để lừa người cấp hàng và khách hàng của mình. Mỗi khi ông mua thứ gì, cái cân sẽ cho kết quả ít hơn, và khi ông bán món gì, cái cân sẽ đưa ra số lớn hơn.
“Đó là lý do tại sao ông bán vải bông bị phá sản sau khi ta mua hàng ngàn kg vải bông của ông ấy. Ông ta đã cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu vãn nhưng đã chết vì bệnh thương hàn 20 năm trước. Ta vẫn còn cảm thấy có lỗi với ông ấy cho đến tận bây giờ”, ông Triệu nói.
“Cũng còn có một ông bán thảo dược đã mất sau khi ta lừa ông ấy bằng cái cân của ta. Còn có những người khác nữa, nhưng hai người đó là bị lừa nhiều nhất. Kể cả khi ta bây giờ có cuộc sống giàu có và hạnh phúc, mỗi khi ta nghĩ đến những người đã chết bởi việc làm của ta, ta thấy đầy tội lỗi đến mức không thể ngủ được”.
“Để được thanh thản, bây giờ ta đã quyết huỷ cái cân này trước mặt tất cả các con, và ta thề là từ nay ta sẽ hành xử trung thực”
Những người con hoan nghênh quyết định của ông “Cha à, đây mới là cách làm đúng. Chúng con hoàn toàn ủng hộ quyết định của cha”, một người con hân hoan nói. Thế là ông Triệu ngay lập tức đập vỡ cái cân tội lỗi, giữ lời hứa cư xử trung thực và làm những việc tốt kể từ đó.
Tuy nhiên, không lâu sau gia đình ông Triệu đã gặp bất hạnh. Đầu tiên, con trai cả của ông mất đột ngột do bệnh tật. Sau đó anh thứ hai cũng qua đời do một chứng bệnh kỳ lạ, và người vợ goá đã đi theo người đàn ông khác. Rồi người con thứ ba bất ngờ mang bệnh và mất không lâu sau. Khi đó vợ của người con thứ ba đang mang thai.
Trải qua những bất hạnh đột ngột này, ông Triệu cảm thấy rất buồn và mơ hồ.
“Khi ta đi lừa lọc người khác, ta sống hạnh phúc với con cái kề bên”, ông phàn nàn. “ Bây giờ ta đang cố gắng hết sức làm người tốt, thì những điều không may lại lần lượt kéo đến. Có vẻ như câu thành ngữ Trung Hoa ‘Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ là hoàn toàn sai lầm”.
Hàng xóm của ông Triệu rất cảm thông cho ông và gia đình.
Một ngày kia, người con dâu của ông Triệu trở dạ. Tuy nhiên, sau ba ngày lâm bồn, đứa bé vẫn chưa chịu ra. Các bà đỡ lần lượt được mời đến, nhưng đều vô vọng và không biết làm cách nào.
Ông Triệu ngày càng lo lắng. Đúng lúc đó, một vị sư gõ cửa xin khất thực. Gia nhân của ông Triệu đã cố đuổi nhà sư đi, nhưng nhà sư đã nói rằng ông có phương thuốc đặc hiệu cho gia chủ. Nhà sư ngay lập tức được trọng vọng như thượng khách
“Ta là một nhà sư lang thang. Ta đi theo định mệnh an bày”, nhà sư nói với ông Triệu. Sau đó ông đưa cho ông Triệu phương thuốc, và ông Triệu đã sai đầy tớ cấp tốc đưa thuốc cho con dâu. Vài phút sau, người hầu báo lại là người con đau đã sinh con trai sau khi dùng thuốc.
Ông Triệu vui mừng. Ông biểu đạt lòng biết ơn đến nhà sư và thết đãi một bữa thịnh soạn tối hôm đó.
Trong khi dùng bữa tối, ông Triệu hỏi nhà sư, “thưa sư phụ, con có thể hỏi ngài một câu mà con thắc mắc từ lâu được không ạ?” Nhà sư gật đầu.
Vừa thở dài, ông Triệu kể với nhà sư “Con thật xấu hổ khi phải nói rằng con lập nghiệp bằng cách dùng một cái cân gian để lừa gạt người khác. Con quyết tâm trở thành người tốt vào năm ngoái và phá huỷ cái cân. Tuy nhiên, ngay sau khi con phá cái cân, con bắt đầu gặp hết bất hạnh này đến bất hạnh khác."
"Con đã mất ba người con trai trong thời gian ngắn chỉ sáu tháng, và hai con dâu đã rời bỏ chúng con. Thật may là người con dâu thứ ba đã cho chúng con đứa cháu nội này. Tại sao lại có một gia đình hạnh phúc khi con lừa dối người khác, nhưng ngay khi con quyết định làm việc tốt, thì tất cả những bất hạnh này lại gõ cửa nhà con?"
Nhà sư cười to sau khi nghe câu chuyện của ông Triệu, và trả lời lại : "Đừng có tự suy diễn mộng tưởng. Ông trời đối xử thực sự là rất công bằng đối với chúng ta. Người con cả của ông là đầu thai của người bán vải bông mà đã bị chết sau khi bị ông lừa gạt, và người con trai thứ chính là hiện thân của người bán thảo dược."
"Người con trai thứ ba cũng ra đời do tất cả những việc làm xấu mà ông đã tích lũy thành, và cả ba người con ông đến thế giới này để làm đổ nát ông và gia đình ông, thế nên ông sẽ đói mà chết trong tuổi già. Tuy vậy, từ khi ông quyết tâm làm điều tốt, thần thánh đã thể hiện sự thương cảm đối với ông và đã thu hồi lại ba người con ông. Ông đã có thể thoát khỏi định mệnh đó."
Sau khi nghe xong, Triệu cảm thấy như vừa tỉnh khỏi cơn mê. Ông cảm tạ nhà sư về việc đã giảng giải hoàn cảnh cho ông, nhưng ông cũng thắc mắc hỏi nhà sư về đứa cháu nội, phải chăng nó cũng đến để đòi các nợ khác từ ông.
"Tất cả các món nợ đã được trả sau chuỗi bất hạnh vừa rồi," nhà sử trả lời với một nụ cười. "Đứa cháu của ông đến để đem lại may mắn và hạnh phúc cho gia đình. Nó sẽ được hưởng tiếng thơm bời vì quyết định làm điều tốt cho người khác của ông. Đây là phần thưởng dành cho việc ông chọn làm điều tốt."
Ông Triệu đã rất hài lòng và trở nên vững tâm thực thi các điều tốt trong hết phần đời còn lại.
Câu chuyện này thể hiện câu nói cổ của Trung Hoa: "Nếu một gia đình tốt gặp nhiều tai ương, đó có thể là họ đang trả nghiệp hoặc món nợ từ người đời trước. Một khi món nợ đã được trả, họ sẽ hưởng một cuộc sống hạnh phúc."
Dù cho thực tế chẳng ai bắt ta phải tin vào điều đó, dù ta có cân nhắc lí trí đến thế nào, thì con tim ta vẫn luôn hy vọng vào một điều gì đó phù phiếm… Vậy, mãi mãi là bao xa ?
Đôi khi, ta vu vơ tự chợt hỏi với mình rằng "Mãi mãi là bao xa?"
Thực tế, trong tiềm thức ta vốn đã tự nhận ra chẳng có điều gì là mãi mãi… Nhưng ta dù vô tình hay cố ý, vẫn tự huyễn bản thân mình rằng sẽ có kì tích xảy ra thôi nếu một lần nào đó ta may mắn...
Trong cuộc đời, ta sung sướng khi được Thượng đế trao tặng một thứ được gọi là tình yêu. Và cụm từ "mãi mãi", bỗng chốc được khai sinh ra như một quy luật tự nhiên hằng tồn tại.
Ngay từ thưở lọt lòng, cha mẹ đã hứa với ta rằng sẽ luôn ở bên ta mãi. Và thời gian cứ thế trôi qua, ta vẫn luôn thắc mắc trong mình rằng "mãi" ấy là khi nào. Để rồi cuối cùng, ngay cả khi họ đã vĩnh viễn rời xa ta, ta vẫn chẳng thể nào định nghĩa được cụm từ ấy…
Mãi mãi là bao xa ( Bao lâu )?
Có lẽ, mãi mãi là khi tình yêu thương dạt dào vẫn chôn chặt đến tận đáy lòng dù đã bị cuộc đời chua cay nhẫn tâm cắt… Là khi nước mắt chẳng thể nào ngừng tuôn rơi… Là khi nỗi đau vẫn còn nhói lại mỗi khi nhắc đến chẳng nên lời…
Và rồi, ta biết là ta ngốc, ta biết là ta sai, nhưng vì ta biết là ta đang tồn tại, nên ta vẫn tiếp tục dấn thân vào cái "bẫy" mang tên tình cảm của thế gian này…
Một người nào đó, xa lạ mà thân thuộc, hồn nhiên đến bên đời ta, trao cho ta bao yêu thương, trao cho ta bao hy vọng sống, và một lần nữa, cũng trao cho ta hai từ "mãi mãi".
Ta ngây ngô tin vào điều đó, ngây ngô đón nhận, để rồi cũng ngây ngô để mất đi…
Ta tức giận, ta căm hờn, ta thù hận vào điều gì đó mang tên "mãi mãi"…
Ta nực cười vì tất cả chỉ là dối trá. Ta đau xót khi nhận ra "mãi mãi" vốn là một khái niệm không hề tồn tại.
Nhưng dù cho thực tế chẳng ai bắt ta phải tin vào điều đó cả, dù ta có cân nhắc lí trí đến thế nào, thì con tim ta vẫn luôn hy vọng vào một điều gì đó phù phiếm…
Mãi mãi là khi tình cảm giữa đôi ta vẫn nguyên vẹn tròn đầy dù cho không còn ở bên nhau chăng nữa…
Mãi mãi là khi ta cảm nhận được hơi ấm của nhau dù đã để hình bóng của ai rời xa mất…
Và mãi mãi… là sẽ chẳng bao giờ rời xa nhau cho dù ta, một lần nữa, đã không còn tồn tại…
Vì vậy, đừng bao giờ đánh mất niềm tin của bản thân, niềm tin vào những thứ kể cả khi ta tưởng chừng như đó là một giấc mơ hoang đường… Vì hai từ mãi mãi, luôn tồn tại ở trong ta nếu ta đủ can đảm và nghị lực để giữ lấy chúng…
Kẻ chẳng biết gì mà không tự biết mình không biết gì, anh ta là thằng điên – Hãy tránh xa!
Kẻ không biết gì và tự biết mình không biết gì, anh ta là người chất phác – Hãy dạy anh ta!
Kẻ biết mà không biết mình biết, anh ta đang ngủ mê -- Hãy đánh thức anh dậy!
Kẻ biết và tự biết mình biết, anh ta là một kẻ khôn ngoan – Hãy theo anh ta!
Men are four:
He who knows not and knows not he knows not, he is a fool – Shun him!
He who knows not and knows he knows not, he is simple – Teach him!
He who knows and knows not he knows, he is asleep – Wake him!
He who knows and knows he knows, he is wise – Follow him!
Một người rất yêu các loài cây và hoa đã trồng một loại nho quý ở bờ tường. Cây nho mọc rất khỏe, nhưng chẳng bao giờ thấy có hoa quả gì cả. Hàng ngày, người đó cố gắng chăm sóc, tưới nước cho cây nho, nhưng vẫn chẳng bao giờ thấy kết quả.
Một buổi sáng, khi người trồng cây đang thất vọng đứng nhìn cây nho của mình thì người hàng xóm chạy sang, tay cầm một giỏ nho rất lớn. Người hàng xóm hào hứng kéo người trồng cây sang phía nhà mình:
- Anh không thể tưởng tượng nổi là tôi thích cây nho này đến mức nào đâu! Anh có thể lấy bao nhiêu nho về ăn cũng được, vì chúng là của anh mà! Nhưng tôi muốn nói rằng tôi biết ơn anh rất nhiều khi làm cho khu nhà của tôi đẹp hẳn lên như vậy!
Người trồng cây tròn mắt ngạc nhiên khi thấy bên kia bờ tường, cây nho ra rất nhiều hoa và quả – hết sức rực rỡ.
Cũng vậy, khi chúng ta nghĩ rằng những nỗ lực của mình là vô ích vì chúng ta không nhìn thấy kết quả. Nhưng những cố gắng không bao giờ là vô ích. Chúng tạo ra kết quả ở một nơi nào đó, vào một thời điểm nào đó, mà chắc chắn chúng ta sẽ thấy và được hưởng hương vị ngọt ngào!
Dù giàu có và quyền lực bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu không sống hôm nay, thì bạn không cảm nhận được giá trị của cuộc đời.
Chuyện xưa kể rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở thành mối nghi ngờ, và tương lai trở thành nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ở họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phác và không một chút lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an như vậy.
Ngày kia, vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua giả dạng hỏi: "Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?". Người nghèo đáp: "Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay". Vị vua giả dạng hỏi tiếp: "Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?". "Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp", người thợ đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin của người thợ giày. Vua ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết bộ luật mới ban, người thợ giày nhủ thầm: "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp". Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Trời tối, vị vua dưới dạng người ăn mày lại tới thăm người nghèo. Người thợ sửa giày vẫn giữ thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua cho ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày của mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp".
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, đức vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, mà phải hết tháng ông mới nhận được thù lao. Mặc dù vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng tới thăm ông và hỏi, "Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?". "Tôi được làm lính cho vua", người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: "Làm lính nhưng nhận lương vào cuối tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm thật và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ." Nhà vua giả dạng hỏi tiếp, "Nhưng nếu ông phải sử dụng tới gươm vào ngày mai thì sao?". Người thợ sửa giày đợt trước vần thản nhiên: "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp".
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người đàn ông này sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ. Và như vậy để xem niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp được hay không?
Tên tử tội quỳ xuống chân anh lính và van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Người đàn ông nhà nghèo trong trang phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn: "Lạy Đấng tối cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Còn nếu anh ta vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ". Ngay tức khắc, ông rút lưỡi gươm ra và quả thực thanh gươm bằng sắt đã biến thành gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: "Đây là phép lạ". Vị vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng: "Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm. Ngươi hãy dạy cho ta cách sống lạc quan và bình an".
Bạn thân mến, "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp". Thế đó, cuộc sống chỉ thực sự tồn tại trong hiện tại, chứ không ở trong quá khứ hay trong tương lai. Cái triết lý của người đàn ông nghèo thực sự có giá hơn cả vàng bạc, địa vị, nhan sắc hay quyền lực.
Dù giàu có và quyền lực bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu bạn không sống hôm nay, thì bạn không cảm nhận được giá trị của cuộc đời. Nếu bạn không sống cho giây phút hiện tại, thì cuộc đời của bạn vẫn như là những chuỗi ngày kiếm tìm, rượt bắt cái bóng "an toàn, hạnh phúc" một cách vô vọng. Thật hữu ý và hợp tình khi danh từ tiếng Anh "present" mang nghĩa "quà tặng" và cũng có nghĩa "hiện tại." Như vậy, hiện tại là quà tặng. Ai không sống trong hiện tại là tự mình khước từ quà tặng của cuộc sống. Đó chính là niềm vui, hạnh phúc sự bình an và tự chủ trong mọi giây phút của cuộc đời mỗi người.
Một bài viết hay dành cho những người Việt tại hải ngoại…
Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.
Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở San Jose, hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời, tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam, để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.
Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi.
Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.
Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc.
Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.
Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.
Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu.
Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi… nghĩ lại.
Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?
Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.
Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.
Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.
Nước ở hồ San Jose trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.
Lại có những lần ở Việt Nam, tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã có điều gì rất lạ.
Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “ấn tượng”. Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.
Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ!
So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?
Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.
Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.
Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không may, cụ bị Alzheimer. Vậy là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.
Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!
Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.
So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.
"Khi về đổi họ thay tên.
"Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn dòng".
Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên, ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi... già trước tuổi sau ngày "cách mạng thành công" ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác. Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít, nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào.
Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu ...
Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi...bắt mạch hốt thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi...chỉ còn làm ruộng dài dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các.
Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất ...quí phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ...văn chương, cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích...gọn bâng: Tại nó là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác.
Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc (hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng - làm việc được gọi là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: "Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?".
Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An - bà con bạn dì với má tôi - nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy... chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu !
Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là ...cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó... lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không - đôi guốc chỉ dùng để...rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !
Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà...’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày...Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn...
Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”...
Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An - bà con bạn dì với má tôi - nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy... chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu !
Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là ...cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó... lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không - đôi guốc chỉ dùng để...rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !
Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà...’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày...Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn...
Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”...
Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng. Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức “lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng, cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên...dễ nhớ!) Chớ không thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường hào ác bá “ gì gì...Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị “sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một cách rất...tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành công”. Mừng cho ổng bả!)
Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như phải có những thứ đó thì lúa...mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi khai lý lịch khai tới khai lui...Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết ! Lai căn tạp nhạp.
Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc... chết quá! Tôi đành liều mạng mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo Pulau Bidong (Mã Lai).
Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư. Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”. Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “Asseyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous asseyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc.
Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur, thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ.
Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều này tôi muốn chia xẻ với những người ti. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi... cụt hứng.
Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe. Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi- Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam. Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi thân đến ứa nước mắt….
Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng vẫn được gần với...chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên “Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên, lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng...
Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó, cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc. Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“.
Photo: SỰ NGHIỆP Con hỏi ta về sự nghiệp Con và đa số người thế gian hiểu sự nghiệp như vầy: Một mảnh bằng, một ngôi nhà, việc làm ổn định và danh vọng Một tình yêu và những đứa con xinh đẹp Sự nghiệp là như thế Suốt cuộc đời dong ruổi hy sinh tất cả cho việc này Ta hỏi con Có ai thoả mãn được việc này trước lúc nhắm mắt xuôi tay Chỉ cần thoả mãn một phần thôi cũng không được Nếu lấy đây là mục tiêu của cuộc đời Hoá ra đời ta phấn đấu để vào địa ngục Tại sao? Trước khi muốn được một điều gì Ta phải đổi cả máu và nước mắt của chính ta và bao nhiêu người khác Khi có được, ta cũng vô cùng đau khổ Cũng tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để giữ gìn Và sự đau khổ sẽ kéo dài không dứt Cho đến khi không còn gì cho ta giữ nữa Rồi lại tiếp tục đau khổ vì cái có đã mất rồi Rồi ta tiếp tục đau khổ để làm lại lần nữa, làm lại từ đầu. Rồi ta tiếp tục khổ đau nếu ta không còn may mắn Hoặc giả sử ta được một lần may mắn nữa Ta cũng chẳng được gì lúc nhắm mắt xuôi tay Như vậy Cả đời không có một chút bình yên Không có một chút thời gian cho buông nghỉ Một chút thời gian êm đẹp để ra đi Khi lìa bỏ xác thân ta lại tiếp tục cuộc hành trình đau khổ khác Người có trí tuệ phải thấy như vậy Cái gọi là sự nghiệp trên đây Nó chính là cái bóng của chân trí Thầm nhận chân trí, khám phá chân trí và khai mở chân trí Đó mới là Chân Nghiệp cao cả và vĩnh hằng Có vô lượng cái bóng ở thế gian Cái mà thế gian gọi là sự nghiệp Chỉ là vài hình ảnh nhỏ nhặt lúc hiện lúc tan Không làm cho ta dằn vặt hay vui sướng. Trụ nơi Chân Nghiệp mới là chánh đạo Còn hình bóng sự nghiệp thế gian là cảnh ta vui chơi khi nhân duyên đến Có giá trị gì mà phải chôn chặt đời ta Hỡi những đứa con yêu quý Hãy trở về Chân Nghiệp của các con Đó chính là sự nghiệp tối hậu. (Đạo Sư Duy Tuệ)
Con hỏi ta về sự nghiệp
Con và đa số người thế gian hiểu sự nghiệp như vầy:
Một mảnh bằng, một ngôi nhà, việc làm ổn định và danh vọng
Một tình yêu và những đứa con xinh đẹp...
Sự nghiệp là như thế
Suốt cuộc đời dong ruổi hy sinh tất cả cho việc này
Ta hỏi con
Có ai thoả mãn được việc này trước lúc nhắm mắt xuôi tay
Chỉ cần thoả mãn một phần thôi cũng không được Nếu lấy đây là mục tiêu của cuộc đời
Hoá ra đời ta phấn đấu để vào địa ngục
Tại sao?
Trước khi muốn được một điều gì
Ta phải đổi cả máu và nước mắt của chính ta và bao nhiêu người khác
Khi có được, ta cũng vô cùng đau khổ
Cũng tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để giữ gìn
Và sự đau khổ sẽ kéo dài không dứt
Cho đến khi không còn gì cho ta giữ nữa
Rồi lại tiếp tục đau khổ vì cái có đã mất rồi
Rồi ta tiếp tục đau khổ để làm lại lần nữa, làm lại từ đầu.
Rồi ta tiếp tục khổ đau nếu ta không còn may mắn
Hoặc giả sử ta được một lần may mắn nữa
Ta cũng chẳng được gì lúc nhắm mắt xuôi tay
Như vậy
Cả đời không có một chút bình yên
Không có một chút thời gian cho buông nghỉ
Một chút thời gian êm đẹp để ra đi
Khi lìa bỏ xác thân ta lại tiếp tục cuộc hành trình đau khổ khác
Người có trí tuệ phải thấy như vậy
Cái gọi là sự nghiệp trên đây
Nó chính là cái bóng của chân trí
Thầm nhận chân trí, khám phá chân trí và khai mở chân trí
Đó mới là Chân Nghiệp cao cả và vĩnh hằng
Có vô lượng cái bóng ở thế gian
Cái mà thế gian gọi là sự nghiệp
Chỉ là vài hình ảnh nhỏ nhặt lúc hiện lúc tan
Không làm cho ta khắc khỏai hay vui sướng.
Trụ nơi Chân Nghiệp mới là chánh đạo
Còn hình bóng sự nghiệp thế gian là cảnh ta vui chơi khi nhân duyên đến
Có giá trị gì mà phải chôn chặt đời ta
Hỡi những đứa con yêu quý
Hãy trở về Chân Nghiệp của các con
Đó chính là sự nghiệp tối hậu.
Anh nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa thiên cung cả trăm bộ anh đã qùy xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu khúm núm tâu :
- Bẩm lạy Cha nhân từ: Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết, cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và 10 đứa con, bữa tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà yêu mến của Cha là sung sướng lắm rồi. Con xin tình nguyện làm bất cứ việc gì con cũng xin vâng theo...!
- Chúa nhìn anh nông dân trìu mến Ngài phán: Con quả thực có công lớn, vì:
- Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!
Chỉ bốn mươi năm con chịu... nổi
Thiên Đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Qua câu chuyện dí dỏm trên, cho phép ta suy luận. Bất cứ ở trong địa vị nào dù quan trọng hay không quan trọng, mỗi người chúng ta đều là một Tông Đồ của Thiên Chúa. Sự khiêm tốn hoàn thành sứ vụ của mình, không phân biệt dù lớn hay nhỏ đều có là giá trị, chứ không phải giá trị ở chức vụ. « …sau khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. » (Lc 17,10)
Chúng ta có yêu thương nhau, chúng ta mới biết nhường nhịn nhau. Vì có "khôn ngoan" mới biết nhịn nhục. Vì sự nhịn nhục và tha thứ sẽ làm cho tình yêu được bền vững, gia đình hòa thuận, mà gia đình chính là nền tảng của xã hội; là một giáo xứ nhỏ trong những giáo xứ của Giáo Hội. Quả thực xứng đáng là bậc thầy vậy !
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.