Chuông bị “thiến” cho khỏi vang, chuông nặng đến mức… treo không nổi, chuông gọi trâu vàng từ Trung Quốc… là những quả chuông ḱ dị trong lịch sử Việt Nam.
Trong nền văn hóa Việt Nam, từ hàng ngh́n năm nay những quả chuông lớn bằng đồng luôn được coi như biểu tượng tâm linh mà hầu hết các các công tŕnh tôn giáo, tín ngưỡng như nhà thờ, đền chùa, từ đường... đều có. Với vai tṛ đó, rất nhiều câu chuyện lạ lùng đă xuất hiện chung quanh những quả chuông này…
Chuông bị “thiến” cho khỏi vang
Trong lịch sử Việt Nam có một quả chuông không to lớn, không gắn với các câu chuyện thần thoại, nhưng có một số phận rất lạ lùng. Đó là quả chuông của làng La Chữ (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Làng La Chữ vồn là một ngôi làng trung thành với triều đ́nh Tây Sơn. Quả chuông của chùa làng được đúc vào năm Quang Trung thứ 4 (1791), do chính vợ chồng tướng Vơ Văn Dũng, một vị vơ tướng chủ chốt của triều Tây Sơn cùng với nhạc phụ đứng ra làm hội chủ cúng dường.
|
Chuông làng La Chữ. Ảnh: CAND. |
Đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, để xóa sổ những tàn tích của vương triều cũ, nhiều giá trị văn hóa của triều Tây Sơn cũng bị nhà Nguyễn trưng thu, phá hủy, đặc biệt là các loại hiện vật bằng đồng. Sự gắn bó của làng La Chữ với vương triều Tây Sơn đă khiến người dân nơi đây bảo vệ quả chuông bằng mọi giá.
Quả chuông đồng của làng La Chữ có một điểm lạ là tuy không phải lớn nhưng khi đánh lên lại có tiếng ngân vang xa kỳ lạ. Các bô lăo trong làng sợ tiếng chuông vang đến tai vua triều Nguyễn và bị tịch thu bèn cho “thiến” chuông nhằm giảm bớt tiếng vang.
Đó là cách khoan trên đỉnh nhiều lỗ, rồi trám ch́ vào. Mỗi lần có quan binh triều Nguyễn đến lùng sục trong làng, các bô lăo đă lại chuông giấu xuống giếng làng rồi dùng cây cối che khuất để ngụy trang, không cho quan binh nh́n thấy. Chính v́ thế mà trải qua nhiều thăng trầm, đến nay quả chuông quư vẫn c̣n được lưu giữ tại chùa làng La Chữ.
Chuông nặng đến mức… treo không nổi
An Nam tứ đại khí là bốn vật quư bằng đồng nổi tiếng, được đúc công phu, trọng lượng rất lớn, được những người thợ thủ công tài giỏi bậc nhất chế tác trong triều đại Lư - Trần. Một trong bốn vật quư đó là chuông Quy Điền.
Sự xuất hiện của chuông Quy Điền gắn liền với lịch sử của chùa Diên Hựu (chùa Một Cột). Ngôi chùa được dựng ở trung tâm kinh thành Thăng Long trong giai đoạn đầu tiên của triều Lư (khoảng năm 1049).
Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan cũng cho đúc một quả chuông rất to, tương truyền là nặng đến một vạn hai ngh́n cân. Chuông có tên là Giác Thế Chung, ngụ ư là tiếng chuông sẽ thức tỉnh người trên cơi đời. Với tầm vóc của ḿnh, chuông được liệt vào một trong Tứ đại khí thời bấy giờ.
Nhưng sau khi hoàn thành th́ chuông gióng lên không kêu. Cho rằng nó đă thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa. Cũng có tích kể rằng sau khi đúc, quả chuông nặng tới mức không thể treo lên nên phải đem ra để ngoài ruộng. V́ khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng rùa).
Đến thế kỷ 15, quân Minh sang xâm lăng nước ta, chiếm được thành Đông Quan (tức là Hà Nội sau này). Lê Lợi đem quân từ Lam Sơn ra bao vây thành của chúng. V́ thiếu vũ khí, đạn dược, tướng Minh là Vương Thông đă sai quân lính phá hủy chuông Quy Điền để lấy đồng đúc khí giới.
Quả chuông tạo nên hồ Tây
Một quả chuông kỳ lạ khác trong lịch sử Việt Nam gắn liền với truyền thuyết về hồ Kim Ngưu (hồ Tây ngày nay). Truyện kể rằng, vào thời Lư ở nước Việt có một người khổng lồ hết sức to lớn, sức khỏe phi thường, muôn người không địch nổi, xuất gia làm thiền sư. Đó chính là thiền sư Minh Không.
Một dịp nọ thiền sư sang phương Bắc để chữa bệnh cho con vua Tống. Khi công việc hoàn thành, vua muốn trả ơn. Nhà sư chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Vua Tống đồng ư cho thiền sư vào kho lấy đồng, với số lượng bao nhiêu tùy ư. Sư đă lấy tất cả đồng đen trong kho bỏ vào tay nải và thả nón làm thuyền bơi về quê hương.
Về Thăng Long, ông dùng số đồng đó đúc thành các bảo khí nhà Phật, trong đó có một quả chuông đồng cực lớn. Chuông đúc xong, đức vua sai ông đánh một hồi chuông dài để báo hiệu cho dân chúng biết.
Tiếng chuông ngân đến tận kinh đô nước Tống. Nghe tiếng chuông, con trâu bằng vàng to lớn nằm trước kho đồng bên Tàu tự dưng bừng tỉnh. V́ "đồng đen là mẹ của vàng", ngỡ là tiếng mẹ gọi nó liền vươn ḿnh phóng thẳng xuống phương Nam t́m đến quả chuông khổng lồ.
Trâu vàng quần quanh măi mà không t́m thấy “mẹ”, khiến cho cả một vùng đất lớn quanh quả chuông sụp xuống thành một vùng hố sâu. Quả chuông cũng đổ sụp xuống hố. Trâu vàng thấy vậy nhảy xuống và nằm bên cạnh. Chẳng bao lâu sau vùng đất bị trâu vàng dẫm sụt biến thành một hồ nước mênh mông.
Từ đó, quả chuông cứ nằm măi dưới ḷng hồ không ai vớt lên nổi và trâu vàng vẫn cứ nằm măi bên cạnh quả chuông dưới đáy nước sâu mà không quay về phương Bắc. Do vậy, dân gian đặt tên cho hồ là hồ Kim Ngưu. Thiền sư Minh Không về sau được thợ đúc đồng vùng Ngũ Xă thờ làm tổ sư nghề đúc đồng.
Quả chuông “tự lăn xuống biển”
Chuông Vân Bản được coi là quả chuông có số phận kỳ lạ nhất trong lịch sử Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, chuông được đúc trong thời Trần (thế kỷ 13). Ban đầu chuông được treo tại chùa Vân Bản (Đồ Sơn - Hải Pḥng), ngôi chùa nằm trên một mỏm núi hướng ra biển. Vị trí gần với biển cũng liên quan trực tiếp tới những âu chuyện nửa hư nửa thực lưu truyền trong dân gian về quả chuông này.
Tương truyền, sau nhiều thăng trầm lịch sử, chùa Vân Bản bị đổ nát, chuông lăn xuống biển. Ít lâu sau, dân chúng ḥ nhau trục vớt được quả chuông ở bến đ̣ Họng, rồi rước về chùa Nam gần đó. Trải qua vài trăm năm sau, do một trận băo lớn, chùa bị đổ sập, chuông lại bị lăn xuống biển ở chân núi Tháp. Đến thời Lê, chùa Vân Bản được dân chúng dựng lại ở ven núi. Sau khi chùa mới dựng xong, người dân Đồ Sơn lại t́m được quả chuông, đem về treo ở chùa.
|
Chuông Vân Bản. |
Những thế kỷ sau đó, chuông Vân Bản c̣n nhiều lần tuyệt tích dưới đáy biển. Dân gian đồn đại rằng những lần chuông biến mất đều trùng với thời điểm đất nước có biến loạn. Chuông đă một lần bị thất lạc từ thế kỷ 15 để tránh cuộc hủy hoại văn hóa Đại Việt trên quy mô lớn của giặc Minh. Đầu thế kỷ 19, chuông lại “lặn” xuống biển để tránh việc phá chùa Tháp của Hoàng Cao Khải... Đến khi nào "muốn" trở lại đất liến th́ chuông sẽ "tự" cho con người những dấu hiệu để trục vớt…
Lần “trở về” gần đây nhất của chuông Vân Bản là vào năm 1958, khi quả chuông “tự lăn” vào lưới của một ngư dân tại vùng biển Đồ Sơn, Hải Pḥng. Sau đó, chuông được đưa về lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia (Hà Nội) cho đến ngày nay.
Điều đặc biệt là chuông bị ch́m dưới biển hàng thế kỷ nhưng không hề bị nước mặn ăn ṃn, làm hư hỏng. Có người lư giải rằng, chuông bền như vậy v́ được đúc với một tỷ lệ vàng rất cao.
Quốc Lê -
ĐV