|
 |
|
04-22-2021
|
#201
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Cô bé hái sen.
Một anh bạn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của một cô bé 11 tuổi ở quận Bình Tân, thành phố Sài Gòn, hàng ngày phải lội ao, đầm… để hái sen đem ra đường lớn bán kiếm tiền nuôi người cha bệnh tật ở nhà. Câu chuyện anh biết được trong một lần tình cờ đi ngang qua nơi cô bé nhỏ nhắn ấy ngồi bán từng bó sen, anh dừng lại hỏi mua và trò chuyện cùng cô bé. Cô bé ấy đã 11 tuổi nhưng không được đến trường vì phải nặng gánh mưu sinh, khi người cha của em với đôi chân tật nguyền đã mất khả năng lao động từ hơn 1 năm nay. Một ngày giữa tháng 9, tôi cùng anh bạn ấy đến thăm cô bé phi thường kia. Em dẫn chúng tôi vào nơi mà gia đình nhỏ của mình đang sinh sống. Con đường dẫn vào nhà em là con đường đất sình lầy, ngập lún, hai bên cỏ mọc cao hơn đầu người. Ngôi nhà dột nát của hai cha con nằm trên một mảnh đất cằn cỗi đang chờ quy hoạch phường Bình Trị Ðông B, quận Bình Tân. Nó được dựng lên tạm bợ để chống chọi với mưa gió Sài Gòn.
Từ hơn một năm nay, cha của em là anh Nguyễn Văn Thành (45 tuổi, quê Bến Tre) đi lại khó khăn do bệnh tật và đôi chân yếu ớt phải chống gậy.
Tên em là Nguyễn Hồng Thanh, năm nay em tròn 11 tuổi nhưng không được đến trường như những đứa trẻ khác. Một ngày của em bắt đầu bằng việc dậy sớm, lội ra đầm sen trước nhà để mò mẫm hái từng cành sen đẹp nhất đem đi bán kiếm tiền. Mùa này sen không mọc nhiều nên em phải đầm mình trong dòng nước đen ngòm, nặng mùi rác thải mà tìm sen. Em lội tới, lội lui cũng hơn 1 giờ đồng hồ, kéo theo chiếc thùng mút cũ kỹ để đựng từng bó sen vào đó. Bất kể mưa to hay nắng gắt, mỗi ngày Thanh lội ra đầm khoảng 2 lần để tìm sen. Nhiều hôm Sài Gòn đỏng đảnh mưa suốt từ sáng đến chiều, có khi nặng hạt mà rơi như trút, Thanh dù cố gắng đến mấy cũng không dám lội ra xa quá, đành ngồi bó gối nhìn ra đầm sen. Không bán được sen đồng nghĩa với việc không có tiền nên có hôm hai cha con không ăn gì, có hôm Thanh được người chú nấu chén cơm nhỏ lót bụng để ăn, còn anh Thành thì ăn rau luộc cầm cự.
Giữa đầm sen bát ngát, Thanh kéo theo chiếc thùng làm bằng mút xốp, len lỏi vào từng ngóc ngách để tìm hái những cành sen đẹp nhất. Khi tìm đủ những cành sen để có thể bán thành từng bó, Thanh mới chịu lội vào bờ. Sau hai lần dang nắng đầm mình trong ao, người ngợm đầy bùn đất và mồ hôi ướt đẫm trên tóc, Thanh lấy bộ đồ rồi chuẩn bị lấy nước tắm. Ở ngay giữa Sài Gòn phồn hoa nhưng khu vực em ở lại không có nước sạch, em phải hứng nước từ một cái ao còn đọng lại nước mưa từ những ngày trước để dùng.
Sau khi tắm rửa sạch sẽ, Thanh sẽ kể cho cha nghe về một ngày “làm việc” của mình.
“Tôi cũng lội ao hái sen đi bán, có khi giăng lưới đánh cá, làm đủ kiểu để kiếm miếng ăn, con bé Thanh ngày đó ngồi trên bờ nhìn cha nó lội ao, lội đầm, nhiều lần cũng bảo: “Cho con đi với!” nhưng tôi cản. Hơn một năm trước, không hiểu bệnh gì mà bỗng dưng tôi mệt trong người, rồi chân thì yếu dần, đứng không vững chứ nói gì đến lội ao. Rồi Hồng Thanh thay tôi làm việc, nó bảo cha lội được, con cũng lội được. Giờ ngày nào, nó cũng ra đó hái sen rồi đạp xe ra đường nhựa, ngồi bán đến hết mới về…”
Dường như đã quen với cơ cực, Thanh không cảm thấy mệt mỏi khi trở thành trụ cột của gia đình. Em xem điều đó như bổn phận và trách nhiệm mà mình đương nhiên phải gánh. Thanh thường nói, ở đây tuy thiếu thốn nhưng có các anh em chú bác, và có đầm sen, nơi gắn liền với tuổi thơ mình. Tội nghiệp, lội nước trong đầm lầy suốt một thời gian dài, đôi chân của em bắt đầu xuất hiện những chứng bệnh ngoài da.
Hôm nay, em không phải đạp xe đi bán vì có một mạnh thường quân đã vào đến tận nhà thăm hai cha con và mua hết số hoa sen em đã hái được.
Một cành sen với giá 2,000 đồng. Một ngày, Thanh kiếm được khoảng 40,000 – 50,000 đồng. Những cũng có hôm, em chẳng bán được cành nào.
Ðã từ lâu rồi, anh Thành chẳng đụng vào một hạt cơm. Khi có cơm do em trai mình nấu, anh để cho bé Thanh ăn, còn anh chỉ ăn rau luộc. Do chưa làm giấy khai sinh cho Thanh nên anh cũng không thể cho bé đi học. Nhưng vốn ham học nên Thanh cũng hỏi người em họ của mình cách đánh vần, đọc chữ. Thanh khoe: “Con thuộc hết bảng chữ cái, con có thể viết được họ tên của mình!”. Hỏi rằng Thanh có muốn được đến trường không, em lẳng lặng gật đầu. Hiện Thanh chỉ biết bập bẹ đánh vần, viết chữ như học sinh mới vào lớp 1.
“Hỏi rằng trong đầm gì đẹp bằng sen? Xin đáp còn có cô bé tên Thanh kia kìa!”.
Thắm Nguyễn
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
04-22-2021
|
#202
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Nước Mỹ Là Thiên Đường?
-Mau mau lên đi em! Nhớ mang đủ tã lót, áo ấm cho các con! Sữa nữa. Anh ra đề máy xe trước không thôi lạnh mấy nhỏ. Coi chừng ra trễ, má xuống máy bay rồi, bả chửi chết.
Hùng vừa nói vừa lăng xăng ôm mớ “phụ tùng” của xấp nhỏ ra xe trước.
Hùng về Việt Nam cưới Phương qua sự giới thiệu của một người bà con, và đưa sang Mỹ cách nay mười năm.
Thuận vợ thuận chồng, nên cả hai vẫn sản xuất đều dặn, đến nay lũ khũ bốn nàng công chúa, và hai hoàng tử.
Cho nên, đi đến đâu cũng phải mang theo cả một rờ moọc , nào tã lót, nào áo ấm, khăn choàng, bình sữa…
Ôi thôi đùm đùm đề đề…
Và hôm nay bầu đoàn thê tử ra phi trường đón mẹ của Phương sang đoàn tụ sau những tháng năm dài chờ đợi, tưởng chừng đã mỏi mòn.
“…Tội nghiệp bà già, mong muốn được sang Mỹ hết sức vậy đó.
Ủa! Mà hình như đâu phải chỉ bà già mình. Ai cũng tưởng đất Mỹ là thiên đường cả mà !”
Khi Phương vừa đậu quốc tịch cách đây năm năm, bà đã gọi phôn sang, thúc hối làm giấy tờ bão lãnh.
-..Nếu bảo lãnh theo chương trình đoàn tụ mà lâu quá, thì con kiếm đại ông nào độc thân, có quốc tịch, giới thiệu ổng về cưới má qua cho mau…
-Ý đâu được má ! Mấy ông loại đó, người ta dìa cưới con gái hăm mấy không hà, ai đi cưới bà già như má mần chi.
-Nếu chê tao già, không chịu cưới thì chi tiền cũng được…
-Dạ để con lo…
Nói cho bà già yên lòng, đừng thúc hối nữa, chứ vài ba chục ngàn đô la, đối với một người mới sang đây như cô thì lấy đâu ra. Mà chẳng những đưa tiền, lại còn đưa cả mẹ nữa.
Cả chì lẫn chài thế này, thì chắc khó lòng được chấp nhận với một cô gái quê, chân chỉ hạt bột như Phương.
Thật ra bà Huệ, má của Phương nào đã già cỗi gì cho lắm đâu, góa bụa từ lúc còn xuân sắc, ở vậy nuôi Phương cho đến ngày khôn lớn, rồi làm chim đa đa theo chồng về Mỹ, bỏ mẹ hiu hắt nơi quê nhà.
Nên khi vừa trở thành công dân Mỹ, cô vội xúc tiến việc bảo lãnh cho mẹ.
Trong khi chờ đợi cứu xét đi định cư, đã mấy lần bà nộp đơn xin đi du lịch, thăm con.
Nhưng vì mới ở vào tuổi tri thiên mệnh, lại tiền bạc rủng rỉnh do con gái từ Mỹ gởi về, nên trắng da, dài tóc, khiến bà Huệ nom trẻ hơn tuổi rất nhiều.
Đó là lý do khiến tất cả những lần vào phỏng vấn đi du lịch, bà đều bị từ chối.
Thế nhưng, trời không phụ kẻ có lòng.
Hôm nay, ngày 12 tháng 12 năm 2009, niềm vui đã thật sự tràn ngập trong lòng bà và gia đình Phương.
Chuyến bay 4 giờ chiều của hãng AA sẽ đem người mẹ mà Phương hằng thương yêu, nhung nhớ đến bên cô.
Từ nay, sẽ không còn những đêm nhớ, ngày mong và tháng tháng phải năn nỉ chồng thanh toán giùm bill điện thoại oversea.
…
Gia đình tay xách nách mang đến phi trường sớm hơn giờ máy bay đáp khoảng nửa tiếng.
Chẳng thà đi sớm còn hơn để bà già phải chờ đợi, tiếng Anh tiếng U một chữ không biết, thiệt khó coi.
Mấy nhóc con được dịp, tựa chim xổ lồng, chạy nhảy lung tung, khiến hai vợ chồng Hùng như đang chăn vịt chạy đồng lúc còn ở quê nhà. Lôi được đứa này lại, thì đứa kia chạy biến vào quầy sách báo, đứa nọ trốn trong cà phê teria…
May mà phi trường Wichita nó nhỏ như cái lỗ mủi, chứ nếu không thì thiệt không biết làm sao mà quán xuyến nổi tụi nó.
Loay hoay với bầy con phá như giặc Tàu Ô, hai vợ chồng Phương không biết chuyến bay đã đáp xuống tự hồi nào.
-Ủa ! Sao không thấy má vậy kìa " Người ta ra gần hết rồi.
-Ờ há, sao lạ vậy, để anh lại đằng quầy vé hỏi thăm coi …
Hùng quay vừa quay lưng đi, bỗng Phương la lên:
-Má kìa anh Hùng., trời đất ơi sao kỳ dậy " Má ngồi xe lăn…
Phải, bà Huệ đang ngồi trên xe lăn, do một nhân viên phi trường đẩy ra. Cả hai người đều lo sợ đến thất sắc. Mặt mày xanh lét.
-What happen with my mom"
Hùng hỏi một cách lo lắng khi chiếc xe đẩy dừng lại bên hai vợ chồng, và bà Huệ cũng vừa đứng dậy, kèm theo câu trả lời của người nhân viên:
-No, not thing, she can’t speak English and she doesn’t know where to go, so we should help her.
-Thanks you so much!
-You’ re welcome.
Sau khi đã yên vị trên chiếc xe Van dài sọc, đầy đủ tiện nghi của các con, mà nằm mơ cũng không dám nghĩ đến.
Bà Huệ cất tiếng hỏi :
-Sao hồi nãy thấy má xuống, mà tụi bay mặt cắt không còn hột máu dậy "
-Trời ơi ! Thấy má ngồi xe lăn, tụi con sợ điếng hồn luôn đó.
-Tại sao vậy Hùng"
-Má mà có chuyện gì, phải vô bịnh viện, nói thiệt má nghe nhe: Tụi con bán nhà cũng không đủ tiền để trả đó má ơi !
-Tiền bệnh viện ở đây mắc dữ thần dậy sao "
-Dạ, ở đất nước này không lo đói, lo nhất là cái sức khỏe. Bởi vậy, bảo lãnh má qua được thì bớt một phần lo lắng bên nhà, nhưng mang nặng một mối lo khác. Mà những người mới sang có ai hiểu cho đâu.
-Bây giờ thì má hiểu rồi !
-Nó còn vô lý vầy nữa nhe má! Những người đi làm phải mua bảo hiểm, trừ tiền hàng tuần. Khi bị thất nghiệp là bảo hiểm cắt cái rụp. Còn những người chẳng làm lụng gì thì lại có bảo hiểm y tế rất tốt. Thế nên mình có một ông Dân Biểu người Việt, đang góp phần vận động để mọi người dân đều có thể được chăm sóc sức khỏe, dù có đi làm việc hay không …
-Má cũng cầu mong được như vậy! Chứ lúc xuống máy bay, thấy mặt mày vợ chồng con như cái xác không hồn, má đã linh cảm được, nước Mỹ chưa hẳn là một thiên đường như nhiều người thường nghĩ, và như trước đây má cũng đã từng nghĩ…
DƯƠNG THƯỢNG TRÚC
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
04-24-2021
|
#203
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Bán Thân Vì... Nước Mỹ
Nhận được thư nhà gửi sang Hồng bực lắm, bực đủ thứ chuyện, cái lũ em của Hồng thật là lắm chuyện, không biết điều tí nào. Ngày xưa mỗi lần nhận thư Việt Nam Hồng vui lắm, còn bây giờ thì mỗi khi thấy thư Việt Nam gửi qua, Hồng chán lắm nhiều khi chẳng muốn đọc tí nào. Chuyện vui không thấy, chỉ toàn chuyện buồn không...
Lúc thì Tèo anh xin tiền để mua xe Cá Mập chở khách du lịch, khi thì Tèo em xin tiền mở tiệm in thiệp đám cưới. Hồi chưa có tiền thì không sao, lúc có tiền rồi, thì thư qua, đứa này tố khổ đứa kia.
Tèo anh nói Tèo em xài phí, không lo làm ăn, tối ngày biên đề với cá độ đá banh. Tèo em thì méc Tèo anh từ khi có xe du lịch, chị dâu ở nhà không thèm đi làm, tối ngày lo đánh quần, đánh áo, móng tay móng chân sơn đỏ, cái mặt vênh vênh, phách lối thấy mà ghét, ra ý ta đây là bà chủ xe du lịch chứ có chơi đâu. Hồng ngán ngẩm thở ra: chung qui cũng chỉ vì ghen tị tiền bạc mà thôi.
Còn về phần mẹ Hồng, mỗi tháng Hồng gửi về phần bà tiền chợ là 200, mà bà vẫn chưa hài lòng, ý nói 200 mà nhiều nhặn gì. Có tháng Hồng gửi về trễ, tháng nào gửi trễ thì bà phải mượn họ hàng xài trước, chờ Hồng gửi về trả lại sau. Mọi người đâu có biết tuy Hồng làm có tiền thiệt, nhưng sau khi trừ thuế ra trả đủ mọi thứ bill, Hồng đâu có dư bao nhiêu.
Còn tiền sữa, tiền baby sister cho 2 thằng con... Mấy năm trước khi chưa có con, Hồng để dành được chút ít, nên khi Tèo anh, Tèo em xin vốn làm ăn, Hồng lập tức gửi liền với lời dặn liệu mà làm ăn đừng để mất vốn, không có lần 2 đâu nhe! Bây giờ thì chi tiêu đủ thứ, nàng đâu có dư như ngày xưa, mà có ai hiểu đâu.
Hồng cay đắng nhớ lại chặng đường liều lĩnh đi đất Mỹ của nàng...
Ngày đó Hồng mới 20 tuổi, nhờ có chút ít nhan sắc trời cho, chạy chọt đủ thứ nàng xin vào làm kế toán cho một Ngân Hàng nhà nước. Giám đốc là một ông cán bộ sói đầu gần 60 tuổi, mọi người thường gọi là chú Hai... Khi ấy có phong trào mỗi Ngân Hàng được cử 2 người đi qua Mỹ theo diện du học để học hỏi thêm kinh nghiệm và trau dồi nghề nghiệp.
Hồng không bỏ qua dịp may hiếm có này, nàng đăng ký đơn xin đi với điều hứa là sau khi học xong sẽ quay về phục vụ đất nước. Đơn từ giấy tờ đã đầy đủ, Hồng chỉ còn thiếu tấm giấy của Ngân Hàng chứng nhận nàng có tài sản ở Việt Nam trị giá là 200 triệu đồng.
Thời kỳ ấy, số tiền đó thật lớn lao, cho dù cả nhà nàng có bán hết đất đai, ruộng vườn, bán luôn cả bàn thờ ông cố tổ cũng không đủ nữa. Suy nghĩ nát óc Hồng không biết phải tính làm sao. Ngày phỏng vấn sắp đến, Hồng đâm ra hoảng quá. Chiều hôm đó chú Hai đến Ngân Hàng kêu Hồng phải bổ túc giấy chứng nhận có tài sản ở Việt Nam. Hồng dạ cho qua chuyện rồi mong sao cho đến giờ về. Đến lúc tan sở Hồng liền chạy theo chú Hai, leo nhảy đại lên xe của chú và nói nàng muốn chú chở nàng đi đến một quán cà phê vắng người, nàng có chuyện muốn bàn với chú.
Đến quán cà phê nàng ngồi sát bên chú Hai, cầm bàn tay già nhăn nheo của chú lên mà năn nỉ, ánh mắt nàng long lanh, giọng như muốn khóc, nàng năn nỉ ỉ ôi nói 6 câu vọng cổ đại để là xin chú hãy thương nàng, làm ơn giúp nàng ký giấy chứng nhận nàng có tài sản ở Việt Nam, để nàng được đi du học, trước là mở mang kiến thức, sau là khi về nàng sẽ hết lòng phục vụ đất nước, ơn của chú nàng mãi mãi khắc ghi và chẳng bao giờ quên ơn của chú (nói láo thôi, có điều kiện đi được thì dông luôn, ở đó mà quay về phục vụ với không phục vụ).
Quả thật những kinh nghiệm lâu năm trong quân ngũ làm cho chú Hai trở thành một con người vô cùng thực tế. Chú đã đưa ra điều kiện trao đổi bánh ít đi thì bánh quy lại. Nếu Hồng chịu làm nhân tình của chú, thì ông sẽ giúp nàng, hơn nữa ông quen biết rất nhiều, nếu có lời gởi gấm của ông thì chắc ăn hơn, hồ sơ của nàng sẽ được giải quyết mau lẹ. Hồng nhìn chú Hai mà chán ngán quá, thật đúng là câu nói mà mọi người trong sở thường hay nói: nếu đi thi về cuộc thi tuyển lựa người xấu, thì có lẽ chú Hai là người được giải nhất. Da chú thì nhăn nheo từng lớp, có lẽ chú nên di căng da mặt thì tốt hơn, 2 con mắt ti hí, đầu thì sói không có tóc, còn hai hàm răng của chú nữa, lúc chú nói chuyện cứ lập bập lại với nhau như người nói ngọng. Làm thế nào bây giờ"
Hồng nhanh trí suy nghĩ, dịp may không đến 2 lần, vả lại cái gì cũng phải có cái giá của nó chứ, ngày xưa nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, còn Hồng phải bán thân đi tìm Tự Do, tìm cơ hội lo cho gia đình, tính ra nàng còn may mắn hơn Thúy Kiều trăm ngàn lần. Chú Hai cán bộ đen đủi đáng ghê tởm thiệt, nhưng còn bọn hải tặc Thái Lan ngoài biển đông thì sao. Vậy mà biết bao người cũng đã phải liều thân, liều mạng xuống thuyền vượt biển. Thôi thì: cũng liều nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu. Hồng liều gật đầu ưng thuận.
Thế là mọi việc tiến hành y như mong muốn của Hồng. Gần ngày đi, chú Hai càng đòi gặp nàng nhiều hơn. Chú nói chú đã ghiền Hồng rồi chú kêu Hồng sau khi về nước chú sẽ mua cho Hồng một căn nhà, bảo bọc cuộc sống của nàng, vì chú thương nàng nhiều quá, nếu nàng chịu làm vợ hai của chú, nàng muốn gì chú cũng ưng thuận.
Hồng chỉ ậm ừ cho qua chuyện, chứ thâm tâm nàng có thương yêu gì chú đâu. Mấy đêm liền chú đòi Hồng đủ thứ. Sau mỗi lần trả nợ quỉ thần, Hồng đã ứ nước mắt, khi nhìn chú Hai nằm há hốc miệng ra mà ngủ, còn ngáy ồ nữa chứ, Hồng nhìn mà càng thêm ghê tởm. Vậy mà ở ngân hàng, ngày ngày chú thao thao bất tuyệt giảng đủ thứ đạo đức. Toàn bọn đạo đức giả. Rồi nàng cũng ghê tởm cho bản thân của mình, không thương, không yêu mà cũng đã đớt đú đởn, làm như tình nghĩa mặn mà lắm. Bây giờ nàng cảm giác được phiêu linh của người xưa, 2 gia đình đính ước với nhau, cả hai không hề biết mặt, không hề yêu thương, đôi khi cũng sống đến già đó thay. Thì ra một người phụ nữ, dù không yêu thích người đàn ông của mình, cũng vẫn có thể chung sống được. Chính là sự chịu đựng, sự hy sinh. Thế mới biết con người ghê gớm thật, để đạt được ý đồ của mình, con người có thể làm đủ mọi chuyện. Thôi thì cũng xong, chỉ còn ít ngày nữa, cố gằng trả nợ đời cho rồi. Hồng tự nhủ với lòng như vậy...
Qua đến Mỹ còn thê thảm hơn Hồng tưởng nữa kìa, sinh viên đi du học phần đông là con cán bộ, ai cũng có tiền người nhà gửi hàng tháng qua để ăn học, còn Hồng làm gì mà có ai gửi qua, nhà không đủ ăn nữa, tiền đâu là gửi cho nàng. Sau giờ học nàng xin vào 1 tiệm bán Hambuger, 10 năm về trước, mỗi tuần nàng chỉ lãnh được có $1.25 thôi, nhưng cũng tạm đủ, còn hơn là không, khi đi học Hồng bao giờ cũng nhịn đói, chờ đến lúc vô chỗ làm ăn bánh Hambuger bự tổ chảng no cả ngày, chị chủ người Việt cũng dễ thương, chị nói muốn ăn gì thì cứ tự nhiên, gần đến giờ về Hồng ăn thêm 1 cái nữa, trước khi về còn đem theo bịch khoai tây chiên để sáng mai ăn sáng trước khi đi học. Nhờ vậy Hồng đở phải lo về miếng ăn mỗi ngày...
Cả năm trôi qua thật nhanh, gần đến ngày trở lại quê nhà rồi, Hồng không biết làm cách nào để được ở lại Mỹ, nhiều lúc Hồng tự nghĩ hay là đứng trước chợ, treo cái bảng trước ngực kèm với lời rao: "Tìm người bảo lãnh để được ở lại, hứa sẽ làm vợ hiền, chung thủy suốt đời".
Hồng lo quá, chỉ biết cầu trời Phật mà thôi. Có lẽ lời cầu nguyện của Hồng đã thấu đến mây xanh nên bỗng dưng chiều hôm đó, sau khi tan học Hồng cùng con bạn tên Lan sánh đôi ra về. Lan chợt nói bữa nay Sinh Nhật của nó, anh nó sẽ đến rước nó đi ăn, và nó rủ Hồng đi theo cho vui. Hồng nhận lời, tối đó Hồng ăn thật no, ăn tự nhiên không hề mắc cỡ, bù lại những ngày ăn Hambuger ngán lên tận óc.
Anh của Lan tên Hưng, người thì hơi thấp, mắt đeo cặp kiếng rất đạo mạo, anh rất ít cười chỉ ngồi nhìn Hồng ăn mà không nói gì cả. Cảm thấy Hưng có cảm tình với nàng, một ý đồ vừa lóe lên trong óc nàng. Bởi thế sau khi chia tay ra về, nàng lại nũng nịu ngỏ ý muốn gặp Hưng ngày hôm sau (cái nghề nũng nịu, nhỏng nhẽo là nàng đã giỏi lắm, ai qua được nàng.)
Ngày hôm sau khi đi ăn, Hồng dùng những cử chỉ quyến rũ, những lời nói nhẹ nhàng (nói đúng hơn nàng đang dùng Mỹ Nhân Kế để chài Hưng), Hồng năn nỉ nói hết sự tình cho Hưng nghe, ngỏ ý muốn Hưng giúp nàng được ở lại đất Mỹ này. Hưng cũng thẳng thắn không kém, điều kiện Hưng đòi là nàng phải làm vợ chàng.
Nhìn Hưng, Hồng lập tức nhớ tới hình ảnh chú Hai lãnh đạo ngân hàng ngày nào. Làm một bài tính thiệt nhanh, ở đời có cái gì free bao giờ cái gì cũng có cái giá của nó. Thôi thì chẳng thà lấy đại 1 chàng Việt Kiều Mỹ cho xong, còn hơn là quay về Việt Nam nhìn chú Hai há mồm ngáy ò ò. Không chừng còn phải qua tay mấy thằng Đài Loan, Hàn Quốc nữa... Dựa vào chú Hai, kéo dài được bao lâu, cuộc sống cũng chẳng có tương lai...
Một lần Hồng đã bán thân cho chú Hai để được qua Mỹ, bây giờ bán thân lần nữa để được ở lại Mỹ có sao đâu, chỉ sợ không có người mua thôi. Nhìn Hưng kìa... Còn đòi gì hơn nữa.
Và rồi mọi chuyện suông sẻ. Hồng đã có thể ở lại Mỹ, làm ra tiền gửi về nuôi mẹ, giúp em. Vậy mà thư nhà thì không ngừng kèn cựa, đòi hỏi. Hồng thấy buồn quá, cả gia đình nàng chỉ nghĩ đơn thuần là Hồng đi du học rồi kết hôn với người có quốc tịch Mỹ nên được ở lại. Chứ đâu có ai biết để có được ngày hôm nay, được sống trên đất nước tự do, Hồng đã phải ngã giá bán thân đến 2 lần. May mà lần bán thân thứ hai ở đất Mỹ Hồng gặp người tử tế.
Chắc cũng có lẽ là duyên nợ, lúc đầu nàng lấy Hưng chỉ vì muốn ở lại đất Mỹ, nhưng ở lâu dần, nước chảy đá mòn, dần dần tình cảm nảy sinh. Kết quả là bây giờ là nàng rất hạnh phúc bên chồng cùng với 2 đứa con.
Đang miên man với những ký ức của dĩ vãng, Hồng bỗng giựt mình khi nghe tiếng con khóc./.
Trần Huyền Chi
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-25-2021
|
#204
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Ở PHÒNG TẬP THỂ DỤC
Tôi tới cái Gym gần nhà, cố giữ bốn, năm lần một tuần. Cuối tuần thì chắc chắn là khó đi lắm. Ở đó độ hai tiếng. Lên máy đi bộ khoảng 2 miles (45 phút), rồi đi lòng vòng trong đó, nâng cái máy này, đủn cái máy kia một chút, cho cả chân tay đều phải hoạt động. Con trai tôi nói, mẹ cứ nhấc cho con 5 lbs một bên. Cứ làm từ từ ít cái một theo sức mình. Bao giờ quen thì làm nhiều lần hơn. Mẹ già rồi nên tập đều đặn nhưng chầm chậm lại.
Ừ thì nhấc, xem được bao lâu. Giống như hồi trẻ chơi banh, chơi nhẩy giây hay túc cầu. Cái gì cũng háo hức thử, rồi bỏ.
Tôi bước vào phòng tập thể dục, lúc 2 giờ trưa. Giờ này thường vắng người. Đông nhất là sáng sớm và buổi chiều vì người ta tới đó trước khi đi làm hay sau khi ở sở về. Giờ này cũng là giờ của những người đã về hưu rồi.
Chưa kịp vào phòng thay quần áo, tôi chợt nhìn thấy trên hai cái máy chạy bộ trước mặt, có hai cụ già đứng cạnh nhau. Hai cụ tóc trắng phau, trông mong manh lắm. Cụ ông đứng trên máy, nhưng chưa bước vì còn lo cho cụ bà đứng vững đã. Cụ mở số chậm nhất rồi giữ tay cho cụ bà bắt đầu bước, bước thật chậm, từng bước một. Khi cụ bà đứng vững rồi, cụ ông mới mở máy của mình. Cũng thật chậm, từng bước một.
Hai cụ đứng trên hai cái máy, bước thật chậm, hai tay vịn hai bên then ngang, đưa lên đưa xuống. Hai cụ cùng gầy, khom khom lưng, quần áo mỏng màu trắng sữa nhàn nhạt, tóc bạc trắng lưa thưa. Cái máy giúp hai cụ bước chầm chậm, tay đưa lên đưa xuống chầm chậm. Trông như hai phi hành gia bay trên không gian, không có trọng lực, là là giữa gian phòng. Tôi ngẩn người ra nhìn hai cụ.
Cứ tưởng nơi này chỉ để cho những người còn trẻ, hay còn khỏe. Chạy máy rầm rập cả gian phòng. Hai cụ ít nhất ngoài 80 tuổi, cũng tới đây, leo lên máy mà không làm ra tiếng động nào.
Không biết có phải hai cụ, tự mình lái xe đến đây hay con cháu đưa tới.
Tôi thay quần áo ra tập được 15 phút thì thấy hai cụ sửa soạn tắt máy ra về. Cũng cụ ông tắt cái máy của mình trước, rồi tắt máy của cụ bà, đỡ cụ bà xuống hẳn máy mới buông tay ra. Cử chỉ từ tốn, nhẹ nhàng. Hai cụ không thay quần áo trong buồng tắm mà ra về thẳng.
Tôi nhìn theo hai cái lưng còng, hai bàn tay nắm lấy tay nhau, đi thật chậm ra cửa. Không có ai đón, tức là hai cụ tự lo cho nhau.
Tôi hình dung ra ở một khu chung cư nào gần đây. Trong một căn hộ nhỏ, hai cụ tự lo cho nhau miếng ăn, giấc ngủ. Vẫn lái xe, vẫn đi Gym thì chắc hai cụ phải còn những sinh hoạt khác trong những hội cao niên hay nhà thờ, trường cũ, bạn xưa.
Cứ chầm chậm mà bước. Càng bước chậm thì con đường trước mặt càng kéo dài ra hơn nữa. Tôi cần học cách chấp nhận khôn ngoan này của hai cụ.
Trần Mộng Tú
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-26-2021
|
#205
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC
Cô không ngờ mình lại gặp một người mẹ chồng dễ sợ như vậy, từ khi kết hôn bà chưa từng xem trọng cô, ngày nào cũng nói những lời khó nghe. Cô chỉ biết khóc.
Người khác khuyên cô rằng mẹ chồng cô về hưu rảnh rỗi không có việc gì làm, cô cứ sinh một thằng bé kháu khỉnh, bà ấy trông cháu thì sẽ không phàn nàn cô nữa.
Mẹ chồng gây áp lực cho cô, bà cứ luôn hỏi cô khi nào thì sinh cháu, kết hôn đã mấy năm rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì cả. Mẹ chồng còn nói những câu khó nghe hơn: “Nuôi con gà còn có thể đẻ trứng, lấy một cô vợ về mà chẳng chịu sinh cháu, thế thì thà nuôi một con gà mái còn hơn”.
Chồng cô khuyên mẹ mình: “Mẹ, mẹ nói gì vậy ạ, bọn con bận công việc, tạm thời chưa muốn sinh con”.
Bà mẹ lại nói: “Đã 30 tuổi đầu rồi còn bận đến khi nào đây!”
Thật ra không phải là hai vợ chồng cô không muốn sinh con, họ rất muốn có con, nhưng không biết vì sao mãi mà cô vẫn chưa mang thai. Nay đã qua 30 tuổi rồi, không thể dùng lý do bận công việc không muốn sinh con nữa.
Mẹ chồng cô nói: “Đến bệnh viện nào lớn mà khám đi, khéo lại bị bệnh gì đấy!”
Bà không nói là nghi ngờ ai có bệnh, nhưng cô biết chắc chắn là đang nghi ngờ cô. Cô cũng có hơi nghi ngờ bản thân mình có bệnh gì đó, chồng cô khỏe mạnh như thế, không có vẻ gì là có bệnh cả.
Kết quả kiểm tra ngoài dự kiến, thì ra là do anh bị bệnh. Khi biết được điều này, cô đã gào khóc lớn, rất nhiều năm qua, cô đã chịu biết bao nhiêu tủi nhục, cô oán giận đánh vào lưng anh:“Đều là tại anh, mẹ anh còn mắng tôi, lời gì khó nghe cũng đều nói ra hết cả!”
Anh lặng lẽ rơi nước mắt, không nói câu nào.
Về đến nhà, cô đẩy cửa vào nhà trước, mẹ chồng nói: “Sao lại khóc lóc thế kia? Ai nợ cô tiền hả? Ôi dào, tôi hiểu rồi, khám ra là cô có bệnh rồi chứ gì?”
Bình thường vì nghi ngờ việc không có con là do mình nên cô thấy tự ti trước mặt mẹ chồng, khi bà nói những lời khó nghe, cô chưa từng dám đáp trả, nhưng lần này cô lại hét lớn: “Ai có bệnh chứ, có mẹ bị bệnh ấy!”. Nói xong cô đẩy cửa đi vào phòng ngủ.
Mẹ chồng ngây ra, bà hỏi con trai vừa đi vào sau: “Chuyện gì đây?”
Anh nói: “Mẹ, có kết quả kiểm tra rồi, là do con ạ”.
Bà không tin, bắt anh phải cho xem kết quả kiểm tra.
Anh nói: “Mẹ xem cũng có hiểu gì đâu ạ”.
Bà lại nói: “Thì mẹ tìm người nào hiểu xem hộ!”
Anh nói: “Chuyện này có gì hay sao mà còn để cho người khác biết chứ ạ! Con xé và ném vào nhà vệ sinh ở bệnh viện rồi”.
Bà khóc lóc, nói dù phải tốn bao nhiêu tiền cũng phải chữa được.
Anh nói rằng bác sĩ đã nói rồi, bệnh này cả thế giới cũng không chữa được.
Thế nhưng bà mẹ không cam lòng, đi hỏi thăm những nơi chữa vô sinh bằng Đông y, rồi đi lấy thuốc, bắt anh uống những chén thuốc đắng nghét, vậy mà vợ anh vẫn chẳng có động tĩnh gì. Bà mẹ chồng cuối cùng cũng từ bỏ.
Có lần, cô nói với chồng mình muốn ly hôn. Anh không đồng ý và nói: “Anh bị bệnh này, sẽ không có ai chịu lấy anh cả, em nhẫn tâm bỏ anh như vậy sao, hay là chúng ta nhận con nuôi đi”.
Cô cũng nói với anh, cô yêu anh, nếu thật sự phải ly hôn, cô cũng không nỡ, đó chỉ là lời cô nói khi tức giận thôi. Họ nhận nuôi một bé trai, bà mẹ chồng rất cố gắng giúp họ trông con. Thái độ của mẹ chồng đối với cô cũng thay đổi 180 độ, mỗi ngày khi cô tan sở, mẹ chồng đều hỏi han, khi cô bị bệnh, bà bê trà rót nước.
Dần dần, cô không còn oán giận mẹ chồng nữa, con trai họ cũng rất thông minh, ngoan ngoãn, gia đình ấm êm hạnh phúc.
Đôi khi cô nghĩ như thế này cũng rất tốt, nếu chồng cô không bị vô sinh, mẹ chồng chắc hẳn vẫn còn khó chịu với cô như ban đầu. Nếu vậy thì cô sẽ rất khó lựa chọn, ly hôn thì cô không nỡ, không ly hôn thì cô không chịu nổi tính khí của mẹ chồng.
Đã nhiều năm trôi qua, con trai họ đã lên đại học, mẹ chồng cũng đã qua đời rồi. Một ngày nọ, cô dọn dẹp tủ và phát hiện những tờ kết quả kiểm tra đã ố vàng trong một tập hồ sơ cũ, cô mở ra xem, mặt biến sắc, cô lập tức cầm đi hỏi chồng.
Anh nói:“Đúng vậy, anh đã nói dối, khi đó kết quả là em bị bệnh”.
Cô kinh ngạc hỏi anh tại sao lại làm như vậy.
Anh nói: “Em thể hiện thái độ tự tin trước mặt mẹ anh là vì em cho rằng người bị vô sinh là anh, nếu anh nói sự thật với em thì em sẽ không còn mặt mũi nào nữa, mẹ anh là người thông minh, bà sẽ nhìn ra được. Anh uống những chén thuốc đắng nghét đó là để giả vờ người bị bệnh thật sự là anh!”.
Thì ra là vậy! Cô ôm chầm lấy anh, không nói nên lời, nước mắt cô tuôn rơi như mưa…
Yêu không phải chỉ là những gì nói ra ngoài miệng, tình yêu hy sinh thầm lặng mới là tình yêu đích thực!
Thanh Trúc biên dịch
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-26-2021
|
#206
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Ông Hai Sang Mỹ Kể Chuyện Phân Dơi
Chắc các bạn còn nhớ ông Hai Sáng, ông Sui của anh chị tôi mà tôi có dịp nhắc tới trong chuyện Làm Giàu, tôi mới gặp ổng chiều hôm qua đây nè. Hai ông bà được con bảo lãnh qua Mỹ chơi. Gặp tôi, ổng bả mừng lắm, nói cười huyên thuyên, kể chuyện xưa, chuyện nay như không muốn dứt. Tôi cũng cười muốn đứt ruột luôn.
Con trai ổng kể:
- Xuống tới phi trường Lốt, ba má cháu theo cháu lôi đồ ra xe, hổng biết ổng mang cái gì mà tới bốn năm cái goa-ly căng phồng, về nhà mới biết đó là khô mực khô thiều, mang cả bột nếp qua đây để gói bánh ít cho cháu nội ăn.
Ngồi trên xe, ổng nhún nhún rồi khen cái nệm êm, khen đường lộ thẳng tắp rộng thênh thang, khen nhà cửa cảnh trí đẹp đẽ, rồi nói :
- Cha ! Tưởng đâu chỉ có ở VN mới có bán nem như nem Thủ Đức hay nem Lai Vung, hổng dè ở phi trường bên Mỹ đây cũng có bán.
- Uở, trong siêu thị VN mới có nem, chứ ngoài phi trường làm gì có bán , ba.
- Có mà, tao thấy nó để rõ ràng , một bên đề Nem, bên kia đề Vỏ Nem. Có điều Mỹ nó cũng đánh vần sai trớt quớt.
- Trời trời, cái đó là cầu tiêu mà ba, một bên là Men, còn bên kia là Women, tức là đàn ông với đàn bà.
- Dậy hả, vậy mà tao cứ tưởng bán nem.
Ở Nam Cali tuy đã cuối hè, nhưng buổi chiều khá mát, ông Hai lên bộ đồ kiểng, dạo ra phố Bolsạ Tuy cách nhà chừng một dặm và queọ có ba bốn cái đèn, nhưng lần đầu đi chơi, lúc trở về ông lạc cả hơn tiếng đồng hồ, vì:
- Sao tao thấy nhà ở Mỹ cái nào trông cũng giống như cái nào, ngay cái nhà này, tao thập thò hoài ngoài cổng mà hổng dám vô, tới lúc nghe tiếng con vợ mày la mấy đứa nhỏ, tao mới biết chắc là nhà mình.
Ông khoái cái thái độ vui vẻ của mấy người Mỹ hàng xóm :
- Bà nó ơi, người Mỹ ở đây họ lịch sự quá, họ chào tui, và còn biết thứ của tui nữa, họ kêu tui : Hai ! Rồi họ vẫy taỵ
Ông Hai còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện ở xứ Mỹ này, nhưng hầu hết chúng ta đã biết và đã trải qua trong những ngày đầu đến Mỹ. Vậy nên tôi chỉ kể chuyện làm ăn của ông bên VN mà thôi. Đó là chuyện nuôi dơi.
*
Người ta nuôi trâu bò, heo cá, nuôi tôm rùa rắn rết thì nghe tới đã nhiều, nhưng nuôi dơi " Một loài đen đủi, xấu xí mà con người có ác cảm. Mà nuôi giống đó làm gì mới được chớ " Thưa rằng nuôi để lấy phân.
Ông Hai là người nông dân Nam Bộ chính hiệu Con Bướm Vàng, loại người mà khi ngồi uống cà- phe thường co một chân lên ghế cho nó ''phẻ''. Hồi năm 1965 ông có ruộng vườn ở cách đường lộ chừng nửa cây số. Thấy lúc trời chạng vạng tối, có nhiều dơi bay xập xoạng, ông làm thử một chuồng dơi, đó là một cây cột cao gần mười thước, trên chót đóng cây ngang như một cái dù và cột từng chùm lá cây thốt nốt ( Cây này mọc nhiều ở miền Tây VN và bên Cam Bốt, nó giống y hịt cây Mexican Palm bên Mỹ).
Ban ngày dơi rúc vô đó mà ngủ, đêm mới bay ra ăn bồ chét, rầy, muỗịThấy qua một đêm mà cứt dơi đã dầy lên gần một ngón tay, ông Hai liền bỏ tiền ra làm thêm tới mười ba chuồng loại hai cột, loại này có cái lợi là dựa nhau nên đứng vững trước mưa to gió lớn.
Thời thập niên 60, nông dân VN chưa xài phân hóa học nhiều như bây giờ, có nhiều người chưa từng nhìn thấy phân Urê nó ra làm sao nữạ Lúa thì hầu như không ai phải bón phân, chỉ có người làm rẫy mới dùng phân bò, phân cá, để bón dưa, đậu, bí và dây tiêu mà thôị
Phân trâu bò thì ai cũng biết rồi, nhưng phân cá không phải là cứt con cá đâu. Phân này họ lấy từ xác cá ở những nhà thùng làm nước mắm, nhưng nó mặn, đem bón liền thì cây sẽ chết, nên họ trộn thêm cá vụn, loại cá mà heo nó cũng chê, rồi ủ cho hoai ra mới dùng được. Dĩ nhiên phân cá rất tốt nên mắc tiền lắm.
Con dơi chó, dơi quạ nặng chừng nửa ký, chuyên ăn phá trái cây, nhưng dơi chuột mà chúng ta đang nói tới đây là loại ăn muỗi, rầy, thân nó nhỏ bé như con chuột nhắt. Dơi chuột ngày xưa ở rất nhiều trong các hang động vùng núi Thất Sơn, nhưng từ khi chiến tranh lan rộng, những toán du kích ẩn núp trong hang, những trái ô buýt bắn hàng ngày vào vách núi làm đàn dơi sợ hãi bỏ chốn núi rừng càng ngày càng nhiều, để bay về vùng ít tiếng súng hơn. Chuồng dơi của ông Hai dơi về ở đầy nhóc nhách, nó đu lộn đầu xuống đất chen chúc đen kịt trong những túm lá thốt nốt và đẻ nhanh như chuột, nhưng mỗi lần chỉ đẻ hai con mà thôi, vì dơi con bám dưới bụng mẹ, nếu đẻ hàng chục con như chuột thì dơi mẹ bay sao nổị
Phân dơi được cào vô mỗi ngày một lần , đem phơi khô rồi đóng bồ, việc làm này cũng phải cẩn thận nếu không nó sẽ nát nhừ ra như cám.
Những đám ruộng lúa gần chuồng dơi xanh như hành lá, lúa rất trúng. Nhưng những đám ruộng gần quá, trong vòng 100 thước thì vì quá tốt, lá nhiều nên cây lúa đổ ập xuống, mất trắng. Chủ ruộng bắt bồi thường, nên sau một vài năm ông Hai mua luôn số ruộng đó mà để hoang. Lý do là dơi bay đi bay về gần chuồng nhiều, phân cứt rơi vãi nhiều, nên ruộng tốt quá mà canh tác lúa không có lơị, thà để cỏ mọc cho trâu ăn còn có ích hơn.
Có sản phẩm rồi, nhưng tiêu thụ ở đâu " Nông dân trồng lúa gần ở đây thì đâu có ai bỏ tiền ra mua phân, thôi đành đổ xuống ghe mà chở đi bán. Từ đầu Kinh Năm Tân Hiệp, chạy dài xuống Cầu Quằn Rạch Sỏi, người ta làm rẫy thiếu gì, nhưng ông Hai không bán được một gịa phân nào, chào hàng đến đâu cũng bị thiên hạ từ chối, dù giá bán rẻ bằng nửa phân cá :
- Em nói cứt dơi tốt, thì qua cũng biết vậy, nhưng qua đã làm rẫy hơn hai chục năm rồi, chỉ có bón phân cá mà thôị Nay nếu nghe em mà bỏ mồi bắt bóng, lỡ thất muà thì làm sao "
Gần một tuần lễ chở phân đi rồi lại chở về, nhìn gương mặt thiểu não của cả nhà, ông Hai lại chở đi nữạ Lần này ông '' Khuyến Mãí' :
- Thưa bác, nếu bác sợ là nếu bón phân này mà bị thất mùa, thì tui biếu bác nửa gịa, bác chỉ bón thử một hàng ở ngoài bià mà thôị Nếu nó trúng thì tốt, còn có thất thì chỉ bị một hàng cũng không đến nỗi nàọ
- Chú em mày nói có lý, để qua thử coị
Xuống tới Cầu Quằn thì vật phẩm khuyến mãi còn có chút tí, ông Hai quẹo vô xóm Tiều, thấy ông Tiều già đang quảy đôi thùng nước tưới cây bèn hỏi:
- Hia ơi, hia có xài phân dơi hông "
- Có chớ, nhưng ngộ hết tiền dồi, có đổi khoai lang thì ngộ đổi cho, mà nị còn nhiều hông"
- Còn chừng hơn một gịạ
Ông Tiều già, hốt hết phân vô bao, rồi dở bồ khoai lang ra, xúc đổ xuống ghe một thúng lớn, lại trèo lên xúc hai lần nữa mới thôị Ông Hai mừng rỡ nói với con:
- Trúng khẳm rồi con ơị Có hơn một giạ phân mà đổi được bằng này khoai lang.
Một tháng sau, ông lấy ghe nhỏ bơi dọc theo Kinh Xáng, thì thấy hàng đậu đũa bón phân dơi lá nhỏ nhưng xanh đậm, trong khi cả vườn rẫy lá to nhưng ngả màu vàng. Vì chưa biết kết quả ra sao, nên ông không ghé hỏi thăm mấy người làm vườn.
Hai tuần sau, ông lại cà rề đi ''Thăm dân cho biết sự tình'' thì thấy cả vườn hái hết đậu rồi, coi như đã tàn, nhưng hàng bià còn tuơi mơn mởn , ngọn còn đang bủa vòi, bông nụ còn ra hiếm hiệm. Ông chủ nhà ào ra nắm lấy cánh tay lắc lia liạ :
- Trời ơi, tao trông chú em mày hết biết, ghé đây lai rai ba sơị, rồi chiều nay chở mớ bí, đậu dià nhà mà ăn. Rồi bữa nào rảnh , chở cho tao ít chục giạ phân dơị
- Nói thiệt với bác, hồi này tui túng quá, thành thử nếu có chở cho bác, là tui lấy tiền liền chứ không bán thiếu chịu đâụ
- Thì tao có nói mua thiếu chịu hồi nào mà chú em mày lo, mà cả mấy người gần đây đều chờ cái thứ phân này, hèn chi mấy người Tiều họ phải cất công lên tới tận Châu Đốc để mua, nên năm nào họ cũng trúng hơn mình gấp bộị
Kể từ đó, ghe lớn, vỏ lãi, tam bản lúc nào cũng lui tới ì xèo trước cầu bến nhà ông Hai, đôi khi họ còn phải đặt tiền cọc trước nữạ Lúa hồi đó có 50 đồng một giạ mà phân được giá tới 60 đồng. Phân dơi có khi dầy lên cả tấc, mà mười ba chuồng như thế thì không biết hốt được mấy chục giạ một ngày. Những người xung quanh thấy làm chuồng dễ như làm đồ chơi, mà lại ăn thiệt nên đua nhau mua vật liệu về làm. Nhưng có một điều lạ lùng là không hiểu tại sao chuồng dơi của họ, dơi lại đến ngụ cư lác đác, không đủ phân bán để bù cho sở hụị
Con dơi tuy nhỏ có chút xíu nhưng cũng biết lựa đất lành mà đậu, biết lựa chủ mà nhờ. Nuôi dơi không tốn thức ăn, nhưng nếu không biết săn sóc tới đàn dơi, thì nó cũng bỏ mà đi hết, nhất là khi chuồng trại bị rệp. Dơi và các loài chim thường bị một giống rệp nhỏ như đầu cây kim gút, bám cắn dưới cánh, nó hút máu no bụng tròn lẳn và đỏ bóng lưỡng. Dơi dùng mỏ, chân cào cho rớt xuống, nhưng người chủ trai, nếu có kinh nghiệm thì biết ngay rằng đàn dơi của mình đang bị bệnh chí rận. Họ xây chung quanh gốc cột một vòng bệ nước, trong đó pha thêm muối, hoặc thuốc trừ sâu, con rệp bị rớt xuống đất, cố trèo lên tổ dơi, sẽ bị chết hàng đống ở ngay chân cột.
Khi mặt trời đã lặn, dăm ba con dơi tiền phong buông mình xuống khỏi tổ, sau đó bay vọt lên cao, thăm thú tình hình thời tiết mưa bão, rồi trở về thông báo với cả đàn. Nếu không có con nào dời tổ , thà nhịn đói không đi kiếm ăn, thì chắc chắn đêm đó có mưa to gió lớn. Còn nếu bình thường, đàn dơi sẽ từng lần lượt rời tổ chừng một ngàn con một lần, tiếng cánh quạt gió ù ù như tiếng báo đầu một cơn bão lớn. Có lần mấy người đi giăng câu gần đó, nghe tiếng ì ì, tưởng là sắp có cơn giông, nhưng khi thấy vẫn trời quang mây tạnh, lại tưởng đâu bị ma nhát, nên vội vàng cuốn câu bỏ chạỵ
Khi dơi đã đi ăn, người chủ trại trèo lên sửa từng tấm lá cho ngay ngắn, thay những tấm te tua hay cũ quá, xịt thuốc muỗi để diệt rệp trong các kẽ lá, thuốc này còn có công hiệu diệt luôn những con rệp còn bám theo mình dơi, khi dơi trở về nữạ
Người chủ trại biết ơn đàn dơi của mình, ngoại trừ nó đã cho phân, nó còn diệt biết bao sâu bọ rầy muỗị Họ cưng đàn dơi, trèo lên nhắc từng lá để kiểm bệnh, rệp. Vì dơi bám đầy, nên có khi dùng hai tay mà không nhấc lên nổi một phiến lá thốt nốt. Những con dơi cũng nhận ra người chủ đang săn sóc mình, nên không hề sợ hãi mà vẫn nằm im, trố hai con mắt trau tráu ra nhìn. Những con bị rớt xuống đất , được lượm đưa lên tổ vì dơi không tự mình bay từ mặt đất mà phải từ trên cao buông mình rớt xuống, rồi mới baỵ
Ở đời này người ta thấy mình làm cái gì thành công, thì hay bắt chước, mà nếu không thành công thì họ lại quay ra oán mình. Có một ông kia tức giận vì chuồng dơi của ổng chẳng có con nào tới ở, nên vào một đêm hè nóng , có gió hanh, ông ta lén đốt chuồng dơi cuả nhà ông Haị Mùa khô hạn, nước trong ao đià chẳng còn bao nhiêu, nên không ai có thể dập tắt được ngọn lửa phá hoại đang cháy đùng đùng, mười ba dẫy chuồng dơi biến thành bình địa trong mấy giờ đồng hồ. Lửa cháy ngất trời đã làm đàn dơi sợ hãi bay đi mất, đến nay qua bao nhiêu năm rồi mà cũng không hề dám quay trở lạị
Ông Hai ưu tư nói với tôi :
- Chú à, người ta nói kiếp trước mình gieo nhân nào thì kiếp sau gặt quả nấy, nhưng tui nghĩ có khi mình phải gặt quả ngay ở đời nàỵ Thí dụ như cái ông đã đốt lửa chuồng trại của tui đó, ổng chết thê thảm quá, mà mấy đứa con trai cũng mang hoạ lây, một thằng thì bị bắn chết, còn một thằng trèo lên nóc nhà bị điện giựt cháy đen thui. Thiệt là ''Thiện ác đáo đầu chung hưũ báó' há chú"”
Tân Ngố
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-27-2021
|
#207
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Bài văn được điểm cao nhất
Trong giờ trả bài tập làm văn, cả lớp luôn sôi động vì thầy giáo sẽ chọn ra bài văn điểm cao và bài văn điểm thấp nhất để đọc cho cả lớp nghe.
Bài điểm cao luôn được cả lớp nghe say sưa và vỗ tay tán thưởng, còn bài văn bị điểm thấp lại bị những trận cười như vỡ trận…
Cả lớp hồi hộp khi xấp bài trên tay thầy đã vơi đi nhiều rồi mà bài của mình còn chưa thấy đâu.
Và hôm nay, như thường lệ. Thầy mở xấp bài ra làm. Cả lớp nhấp nhổm.
Đầu đề bài văn là: “Hãy kể lại một kỷ niệm sâu sắc nhất của em”
Thầy nói:
-“Lớp có bốn mươi em thì chắc chắn sẽ có 40 kỉ niệm khác nhau”.
Mỗi khi bị Thầy chê là đơn điệu, cả lớp chúng tôi thường chống chế:
-“Thầy ơi, học cùng nhau thì làm sao mà dẫn chứng không trùng lặp nhau được…”
Khác với mọi khi, Thầy đưa bài cho lớp trưởng phát và chỉ giữ lại một bài.
Cả lớp, đứa nào cũng nhón chân nghển cổ cho cao để cố nhìn cho ra cái tên của ai và được mấy điểm, nhưng không thấy được.
Người giỏi văn nhất lớp là Kim Chi, nhưng dự đoán nhanh chóng tiêu tan khi Kim Chi với tay nhận bài của mình.
Cả lớp cùng suy nghĩ:
-“Thế là Thầy giữ bài văn dở nhất rồi…”
Và thế là cả lớp chuyển ánh mắt về phía Cường kèm theo tiếng cười khúc khích.
Cường hay viết những câu văn kiểu như: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn, vậy nên chúng ta phải đi nhiều ngày hơn nữa…”
Nhưng Cường cũng đã nhận được bài của mình. Cả lớp bắt đầu nhao lên:
-“Vậy bài của ai? làm sao biết trước được bài sẽ đọc là của ai?
Trời mà biết được. Môn văn có khi bài trước mới được 6 điểm kèm lời phê: “Lối hành văn trong sáng, nên đọc nhiều để dẫn chứng phong phú hơn”, thì bài sau có thể nhận ngay điểm 4 với lời phê: “Quá lan man, dông dài”.
Điểm 7 môn văn của Thầy là một ước mơ xa xỉ ngay cả với Kim Chi cũng nói vậy.
Chúng tôi hồi hộp nhìn theo tay của lớp trưởng cho đến khi bài cuối cùng được phát ra. Chỉ một mình Dũng là chưa có bài. Không hẹn, cả lớp đều ngạc nhiên nhìn về phía Dũng, tác giả của bài văn còn lại trên tay của Thầy.
Tất nhiên, để tránh cái nhìn của cả lớp. Dũng ngoảnh ra cửa sổ. Không thấy mặt Dũng, nhưng cả lớp có thể thấy rõ hai vành tai và cổ của cậu ta đỏ ửng.
Dũng là học sinh trường Huyện mới chuyển đến lớp tôi khoảng 2 tháng, không có gì nổi trội. Ở Dũng, cái gì cũng bình thường và chưa có gì tỏ vẻ ra là đặc biệt về môn văn cả. Vậy mà điểm 8, đúng vậy điểm 8 chúng tôi nhìn rõ số 8 đỏ chót trong ô điểm.
Khi Thầy giáo đưa tay sửa lại cặp kính trên sống mũi, cử chỉ quen thuộc mỗi khi Thầy xúc động. Giọng Thầy trầm trầm:
“Kỷ niệm sâu sắc nhất của em là khi nhận được thư của Ba em. Nhà em nghèo lắm, nhưng Ba, Má cho em ra phố học để sau này em có thể làm được điều gì đó tốt đẹp hơn. Cho em ra phố, ngoài việc phải làm thêm để kiếm tiền trang trải việc học hành của em, Ba em còn phải làm những việc mà khi ở nhà em có thể đỡ đần được cho gia đình. Chưa bao giờ Ba má viết cái gì cả. Hồi ở nhà, mỗi khi cần viết thư về quê, hay viết đơn từ gì đó là em viết.
Thầy ngừng đọc, nhìn cả lớp:
-“Các em, Thầy sẽ viết lại nguyên văn bức thư của Ba bạn Dũng lên bảng cho chúng ta cùng đọc.
Một chuyện lạ! Tất cả chúng tôi hồi hộp tò mò nhìn từng chữ hiện ra dưới tay Thầy.
“Con iu thươn, ba kiu người báng con heo đễ có tiềng gưởi cho con, con nhớ nhà khôn? Cả nhà nhớ con nhìu lấm cố họch nge con chừn nào mùa màn song ba má xẻ ra thăm con”.
Lá thư vẻn vẹn có 45 chữ. Khi Thầy quay lại thì Dũng đã úp mặt xuống bàn, hai bờ vai rung rung. Mắt Thầy cũng đỏ hoe.
Cả lớp im phăng phắc trước lá thư đầy lỗi chính tả trên bảng, lá thư yêu thương và gửi gắm của một người cha vốn chỉ quen với công việc cày cuốc, lần đầu cầm bút viết thư cho con.
Đằng sau sự an vui và thành công của một ai đó, có thể là ẩn giấu của những sự hi sinh thầm lặng. Thiêng liêng và thiết thực nhất có thể chính là sự im lặng cao cả của Ba Mẹ. Có thể Ba Mẹ của bạn không hoàn hảo như bao nhiêu người khác, nhưng họ luôn yêu thương con mình theo cách hoàn hảo nhất!
Trần Thành .
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-30-2021
|
#208
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Bằng Với Cấp
Ngày còn ở Việt Nam, ông anh họ từ Mĩ về chơi, cả nhà ai cũng ngớ ra khi anh ấy nửa đùa, nửa thật khoe về cái bằng Master Card của ổng. Đơn giản thì Master có nghĩa là thầy giáo, hoặc cao cấp hơn là Tiến sĩ, nhưng ai ai cũng ngạc nhiên thán phục đến sát đất, không hiểu lúc anh ấy ở Việt Nam, tiếng Anh không đầy một bàn tay, vậy mà nay trở về đã học hành, đỗ đạt được như thế, đúng là mồ mả ông bà táng hàm rồng.
Sau này sang Mĩ, cả nhà mới té ngửa ra về cái bằng Credit Card của ông anh họ, đấy chỉ là thứ ăn trước trả sau, mà chữ Credit lúc nào cũng kề một bên đít, chạy đâu cũng không thoát, chỉ trừ khi về với ông sáu tấm.
Sang Mĩ, đến lúc đi học ESL mới thấy bằng cấp ở xứ này loạn cào cào cả lên, học ngắn học dài gì cũng có bằng, làm bài giỏi cũng bằng, xuất sắc về môn nào đó là bà giáo cũng âu yếm tặng cho một tấm về xem chơi cho đỡ buồn.
Thằng bé con nhà tôi mới học Tiểu học mà đã nhiều bằng quá. Không biết có phải những chữ Certificate đều có nghĩa là bằng cấp không, đi học đầy đủ không nghỉ ngày nào cũng có bằng, ra thư viện đọc sách lem nhem, ghi ẩu mấy cái tên sách cũng có bằng khen và chữ kí của Thống đốc Tiểu bang, rồi còn nhiều thứ giấy khác cứ ngập cả lên. Sự thật tất cả không phải đều không có giá trị, nhưng lạm phát bằng cấp, giấy khen nhiều quá hóa cũng nhàm, nhìn như miếng giấy lộn. Thằng con lớn của tôi học Đại Học cũng mang về bao nhiêu bằng, thấy tôi nhìn với đôi mắt nghi ngờ, nó vội giải thích là toàn bằng có giá trị, không phải mua sẵn ở Office Depot rồi viết vớ vẩn vào là được. Nó nói thì nói, tôi vốn dốt lại đa nghi, nhất là từ ngày qua Mĩ thấy lắm thứ lạ, thỉnh thoảng trong đống thư từ, tự nhiên thấy có một công ty nào đó gởi cho mình tấm bằng,trên ấy tên tuổi được ghi chữ mạ vàng rất đẹp, mà mình lại chưa hề thi cử bao giờ, thế là bụng đâm mừng rơn, lại nghĩ ngợi khi khổng khi không mình đâm có bằng cấp tự trên trời rơi xuống.
Chương trình học hè của đứa con út, có một tháng dành cho phụ huynh học sinh. Đa số, dân ở đây là dân tộc thiểu số, cho nên vấn đề liên lạc giữa nhà trường và phụ huynh thật phức tạp, do đó mới có chương trình bổ túc dạy hè cho phụ huynh. Một tháng ấy gồm có những ba chương trình: ESL, Computer và Dinh dưỡng trong đời sống. Tất cả phụ huynh học giỏi, học dở gì cũng chỉ có một lớp, từ đánh vần a,b,c,d. . .,nguyên âm với phụ âm, chưa đọc thông mấy câu hỏi thăm sức khỏe nhau thì đã mãn khóa, thế là "ò e, con me đánh đu, thằng cha nhảy dù. . .", cả lớp có một bữa party ra trò để nhận bằng tốt nghiệp.
Lớp Computer mở ra một ngày hai tiếng, một tuần bốn ngày, đại khái là mỗi người một màn hình và một con chuột, ai nấy ngồi nghiêm chỉnh, căng thẳng nghe cô giáo chỉ dẫn. Khổ nỗi, vì chỉ có một tháng, ABC chưa thông thì cứ cô nói cô nghe, hoặc trò cứ nghe mà không cần biết cô nói gì, một lũ già đầu tay táy máy con chuột, ngồi nghệt mặt ra nhìn con cóc, con nhái nhảy nhót trên màn hình, bấy nhiêu cái mồm mấp máy theo Ờ, Bờ, Cờ vui ra phết, cứ thế một tháng qua nhanh, mỗi người được một tấm bằng tốt nghiệp Computer "dzỏm".
Đi học chung với nhiều sắc dân khác nhau, Mễ, Tàu, Việt xem nhau như anh em, dù rất ít khi bày tỏ được sự thông cảm với nhau, chỉ nhìn nhau bằng ánh mắt. Lớp học Dinh Dưỡng thường được bà con khoe tài nấu nướng của dân tộc mình: Mễ thì có mấy món ăn cay, rất nhiều đậu, Tàu có mì xào, dầu ăn đẫm trong các món chiên, bảo đảm về lâu về dài có nguy cơ bệnh mỡ trong máu, Việt Nam ta có món chả giò làm chuẩn, thêm tí rau xanh làm gỏi cuốn và món nước mắm chua đậm đà hương vị quê hương. Các bà thày được dịp thưởng thức ngon miệng mà không phải trả tiền, bèn hoan hỉ tặng cho mỗi người một tấm bằng.
Hôm cuối khóa cũng rôm rả ra phết, có sự hiện diện của bà hiệu trưởng, các giáo viên và học trò cũng hân hoan ra mặt,rồi Ư quay phim, chụp hình, lại có một thứ không thể thiếu là bằng cấp. Hôm ấy tôi nhận được những ba mảnh bằng tốt nghiệp, thật xứng đáng cho một tháng đèn sách.
Tuy có nhiều bằng như thế nhưng vẫn nói không thông một câu tiếng Anh, tay cứ bấm loạn xạ con chuột khi xử dụng Computer mà vẫn không biết làm sao để điều khiển cho máy chạy, gặp Mĩ vẫn lắp bắp, ú ớ, nghẹn ngào không thốt được nên lời, bao nhiêu từ ngữ đi chơi mất cả, lúc chia tay chữ nghĩa mới thập thò bò ra, thôi thì chỉ có nước véo tai, đấm ngực tự sỉ vả mình sao mà dốt thế.
Sự thật, ngoài những cái bằng dzởm như thế, thiên hạ cũng có đầy bằng thật, bác sĩ, kĩ sư, dược sĩ, thầy giáo học tóe khói mới lấy được bằng. Dân Mĩ có một điều rất thú vị là họ có rất nhiều thứ bằng cấp, giấy khen, nhờ vậy dốt nát như cỡ tôi cũng có cái an ủi là có đầy bằng cấp, nhờ nước Mĩ có dư thừa sáng kiến và "giấy" cho nên không bao giờ hà tiện lời khen.
Sẵn đây tôi cũng xin kể một câu chuyện vui quanh quẩn vụ thi Quốc tịch. Bà con mình thật thông minh, tuy không đọc được chữ nào trên giấy trắng mực đen về lịch sử Hoa Kì, nhưng môn học thuộc lòng vốn là bửu bối của dân mình, do đó mới có chuyện một cụ già trả lời vanh vách bài học thi quốc tịch, khi nhân viên sở di trú quá ngạc nhiên về sự thông minh của cụ, bèn hỏi một câu rất dễ: "Hôm nay, bà đã ăn sáng chưa"" thì cụ mình tịt mít, chịu không biết họ nói gì.
Hôm đi thi vào công dân Mĩ, tuy gạo bài cả tháng mà sao lúc đó tôi run thế," run như run thần tử thấy long nhan" vậy, lúc vào thi người cứ lẩy bẩy như sốt rét ngã nước. Cũng may, tôi trót lọt qua kì thi nhờ bà giám khảo dễ tính, tôi trở thành công dân Hoa Kì mà không biết nên buồn hay vui, kể cũng hách thật khi từ nay mình đã trở thành công dân một nước giàu mạnh như Hoa Kì, nhưng lòng vẫn ấm ách một nỗi buồn là mình đã đánh mất quê hương. Trong bài sát hạch, người giám khảo hỏi tôi câu này:
"Nếu Hoa Kì và Việt Nam có chiến tranh, bạn theo ai""
Dĩ nhiên tôi phải nói là mình hoàn toàn trung thành với nước Mĩ, nhưng bụng tôi lại nghĩ, nếu quê hương tôi không lọt vào tay Công Sản, có bao giờ chúng tôi lại bỏ nước ra đi. Còn trở lại chuyện chiến tranh năm xưa giữa hai khối Tự do và Cộng sản, thì "mời ông, ông đánh ngay đi, chúng tôi theo ông cả tay lẫn chân", chỉ tại ông giúp không đến nơi đến chốn, bây giờ tôi đã hiểu rằng không có tình bạn giữa các quốc gia, mà chỉ có quyền lợi trên hết, để ngày nay đất nước tôi nên nông nỗi này, là cũng tại các ông đấy chứ.
Trở về câu chuyện bằng cấp của nước Mĩ, mấy bằng kia tôi coi như giả hết, nhưng bằng Quốc tịch thì tôi quí lắm, vì nhờ nó tôi có cái Pass Port, muốn đi đâu thì đi miễn trong túi có tiền, để thỏa mãn sự kềm tỏa thằng dân bao nhiêu năm sống dưới chế độ Cộng Sản. Tôi mua một cái khung rất đẹp, lọng kính mảnh bằng "thiệt" treo lên một chỗ đẹp nhất trong nhà. Một người Mĩ, bạn của con tôi đến chơi nhà, hắn tò mò đọc rồi hỏi tôi:
" Hê, cái gì đây""
Tôi hãnh diện khoe:
" Bằng chứng nhận công dân Hoa Kì của tao đó"
Thằng nhỏ ngạc nhiên, nó thắc mắc:
"Sao tui Mĩ mà không có bằng""
Tôi trêu hắn:
" Á à, như vậy phải về hỏi má mày xem, coi chừng mày không phải người Mĩ.
Nó gân cổ lên cãi:
"Tui Mĩ mà, nhưng sao tui không có bằng."
" Ố là là, vậy có khi mày không phải người Mĩ, chứ muốn làm người Mĩ phải có bằng."
Thằng nhỏ đỏ mặt tía tai lên, cãi:
" Tui Mĩ mà, Mĩ thiệt mà, nhưng sao không có bằng".
" Hê, tao có hai thằng cháu con lai, bố nó Mĩ mà chúng nó cũng đâu phải là công dân Mĩ đâu". Tôi đưa cho nó xem hình hai thằng nhỏ Mĩ lai chưa được gọi là công dân Mĩ, và có lẽ không bao giờ thành công dân Mĩ, vì hai thằng quậy quá, bị sở Di trú hăm he tống về Việt Nam. Hai thằng nhỏ mắt xanh, tóc vàng, đúng là khuôn của Mĩ đúc ra, vậy mà không phải Mĩ.
Cha mẹ ơi, một ngày sáng sủa nào đó, tôi trở về quê hương, đem tất cả bằng cấp tào lao về lòe bà con thiên hạ, vui phải biết, nhất là như tôi, dân i tờ rít, nay qua Mĩ mới có mấy năm mà bằng cấp đã loạn cả lên. Cám ơn xứ Mĩ, người Mĩ, đã không hẹp lòng cho chúng tôi một chút vui về những ngày lưu lạc nơi xứ lạ, quê người.
NGUYÊN NHUNG
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-30-2021
|
#209
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Hôm Nay Ăn Cái Gì Nhẩy?
Chiều cuối Đông năm 1978 trên đồi ở trại 8 Hoàng Liên Sơn, từng toán tù dăm ba người ngồi co ro bên đống lửa đề chờ cai tù và AK dẫn về chuồng (!). Trời đang mưa phùn, anh tù nào cũng vòng tay ôm chặt lấy ngực, rên hừ hừ, răng lập cập không nói lên lời, mảnh áo rách vá chằng vá đụp thấm nước mưa càng làm lưng tù lạnh thêm. Đã vậy đống cỏ cây ẩm ướt gom lại đốt để chuẩn bị đất gieo ngô vụ Đông-Xuân lại không bốc lửa cho tù sưởi ấm mà chỉ có khói khiến tù chẩy nước mắt! Không khói trong cảnh cơ hàn bụng đói cật rét thân xác tả tơi này cũng đủ khóc, huống chi thêm khói như hun chuột!
Anh tù ngồi xổm sát bên tôi hỏi nhỏ:
- "Hôm nay ăn cái gì nhẩy""
Tôi hiểu ý anh hỏi chiều nay trở về chuồng, mà là chuồng thật thì trại cho tù ăn cái gì" Khoai lang, củ mì, sắn lát phơi khô, bắp răng ngựa hay cơm trộn thóc" Nó mà cho ăn cơm trắng là bỏ mẹ! Chỉ được vừa bằng miệng chén đá, "và" một cái là hết, trong khi nếu bắp răng ngựa thì được một chén đầy có ngọn. Cái lợi thế ăn bắp răng ngựa là tù ta có quyền khoan thai nhai từng hạt một, và nhai cho tới khi đi ngủ. Còn ăn "cơm tám giò chả" ư! Làm sao mà nhai từng hạt cơm một được"
Nếu có anh nào kín đáo dấu được bó rau "tằn-u" vào cạp quần thì cũng chỉ đủ nhai làm cho phân thêm màu xanh, VC gọi phân xanh là phân làm bằng lá cây cỏ. Rau tằn-u khác với rau tần-ô để ăn hủ tíu Mỹ Tho hay lẩu hải sản, còn rau "tằn-u" là rau tù-ăn, là bất cứ thứ gì, nói theo cụ Phan Bội Châu là "bới đất cuốc cỏ mà nhét cho đầy bụng đói".
Chiều nào anh cũng hát điệp khúc "ăn gì nhẩy" nên tôi hơi bực minh bèn đáp:
- Thì kiếm xem có con cào-cào, châu-chấu, cóc, nhái, ễnh ương, bù tọt nào "nhẩy" quanh đống rác này mà chụp.
Biết tôi chọc quê, anh sẵng giọng:
- Nếu có cũng đếch đến lượt tao.
Đó là chuyện 31 năm về trước ở trại tù CS dưới chế độ XHCN. Chuyện ngày hôm nay ở trên đất Mỹ, no đủ và tự do nhất thế giới, đứng trước siêu thị tràn ngập thực phẩm tôm gà bò cá heo lon, gạo thơm chất từng đống thì anh vẫn không quên câu hỏi ấy:
- Hôm nay ăn cái gì nhẩy".
Cùng một câu hỏi y như 31 năm về trước, nhưng hôm nay tôi lại hiểu ý anh muốn nói là nhiều "đồ" để ăn quá, chán quá, biết ăn cái gì bây giờ" Đứng sau lưng anh, bỗng dưng tôi không thấy bực mình như ngày xưa mà thấy có cái gì mỉa mai, nên tôi buột miệng nói nhỏ đủ cho anh nghe:
- Ở trong chợ thì có tôm hùm sống đang nhẩy trong hồ, anh tha hồ ăn, còn ở bên ngoài chợ, phía bên kia đường, có tiệm nhẩy sexy, tối anh đến đó thì tha hồ mà ăn "đồ" nhẩy.
Anh quay lại nhìn tôi mìm cười:
- Ăn lốp-tơ có nhiều co-lét-tê-rôn lắm.
Nhưng có lẽ anh không hiểu ý tôi nên không trả lời nốt vế thứ hai, và anh cũng không nhận ra người cùng tù năm xưa đã bảo anh kiếm cóc nhái mà ăn. Vì kẹt get-lai phía sau đề tính tiền nên tôi tiếp tục bị nghe người đàn bà xách bóp, chắc là vợ anh hỏi cô cát-xê:
-"Có gạo nàng hương bao bố chợ Đào không em"".
- "Không, chỉ có con ngỗng, ông địa và ba cô gái thôi, ăn cũng tạm được"!
- "Ối giời, ăn con ngỗng ... chán chết."
Người đàn bà đi chợ đã rất lịch sự gọi người "cát-xê" là em, mặc dù gương mặt, vóc dáng được sửa chữa, sơn phết cũng không che được dáng dấp của một "bà nội", và bà nội này càng giống bà phán Phom hách dịch khi trả lời khách hàng cụt lủn "không" kèm với lối "thị của" khi nói rằng gạo con ngỗng, gạo ông địa, gạo ba cô gái ăn cũng "tạm" được, ý muốn nói rằng không có gạo ngon hơn, thơm hơn, dẻo hơn, thì đành phải ăn .. cô gái chứ biết làm sao!.
Đó là lối bán hàng của các bà các cô nói tiếng Việt ở các siêu thị chủ gốc "bông, gốc hoa" trong cộng đồng người Việt. Chuyện khinh thường khách hàng của các nhân viên siêu thị từ lâu đã trở thành quá quen thuộc rồi, xin hẹn kỳ tới sẽ hỏi thăm sau, chuyện hôm nay là thái độ của vợ chồng người đi chợ.
Khi nghe bà "cát-xê" nói gạo con ngỗng ăn cũng tạm được, còn bà vợ thì lại nói chán con ngỗng thì anh cũng hùa theo, hứ lên một tiếng như heo bị chọc tiết:
- "Hứ! Ông địa khô khốc, hay bị nghẹn, chán gạo con ngỗng, hôm nay ăn cái gì nhẩy" Thôi thì mua đại .. ba cô gái đi".!
Nếu tôi không biết anh, không tận mắt nhìn mặt anh mà chỉ nghe tiếng nói như thế thì tôi sẽ tưởng anh là người có óc khôi hài, vì ông địa thì "khô", khô như các ông, những người đang ở tuổi cuối Đông và vì ông không còn thích khô cứng nên nói vợ chọn ba cô gái cho.. mềm chăng"
Nhưng ông không có óc khôi hài như thế, vì ông vốn là một người thật thà ma mãnh từ khi còn ở trại tù số 8 Hoàng Liên Sơn rồi về đến trại tù Vĩnh Quang A, Vĩnh Phú. Có lẽ ông bị ám ảnh bởi chuyện bị nghẹn vì nuốt vỏ khoai lang trong tù nên ngày nay sống trên đất Mỹ, ăn gạo ông địa ông cũng sợ bị nghẹn!
Nếu những cô "cát-xê" hằng ngày sống trong chợ, trên những đống thực phẩm mà coi rẻ thức ăn, khinh thường khách hàng thì còn hiểu được, nếu bà nhà vốn thuộc dòng "châm-anh" tài phiệt, chê con ngỗng cứng thì còn tạm thông cảm, còn anh! Anh vừa mới thoát ra từ nơi đầy những thực phẩm bằng cỏ cây và đã được tiêu hóa (") mà đã vội vàng chê gạo này, thích gạo kia thì quả là điều khó hiểu!
Anh chị là người sinh ra và lớn lên ở VN, chỉ mới qua Mỹ "sống già" trong thời gian ngắn thôi, xin nhớ lại xem ở VN có loại gạo nào trắng, sạch, ngon như các loại gạo anh chị vừa chê không" Hay là anh chị muốn khoe cái quá khứ chỉ ăn có "cơm tám giò chả""
Mới ngày nào trên rừng núi trại 8, cạnh hồ Thác Bà, có người ăn một lúc hai loon guigoz mộc nhĩ (nấm tai mèo) để nhét cho đầy bụng đói. Thứ nấm này, nói theo chính sách khoan hồng nhân đạo của XHCN là "trước sau như một" nên sau khi đi "đồng" về, anh khoe với tôi là những cái "tai gỗ" này "trước sau như một", chỉ tổ mệt dạ dày, chẳng bổ béo chi cả!
Năm 1979 khi những người anh em Việt-Trung như môi với răng, răng cẩu TC cắn vào môi VC chảy máu thì anh và tôi, là tài sản hiếm quý, được VC đưa về trại tù Vĩnh Quang A cho "bò vàng" săn sóc và những người tù này trở thành những người "quân tử", ngày ba bữa vỗ bụng nước nghe bình-bịch. "Nói ra sợ chúng bạn cười" nhưng vì anh chê gạo ông địa nên buộc lòng người ngồi cùng chiếu phải nhắc lại tí kỷ niệm xưa để cho cái dạ dày nó tỉnh ngủ.
Tại phòng giam đội 12, chúng mình ngồi xếp bằng dưới mái hiên, trước mặt là chén cơm độn thóc (!), từng người tù cứ khoan thai nhặt từng hạt lúa bỏ vô miệng cắn lấy cái nhân còn vỏ trấu thổi ra, nhìn cứ như những đạo sĩ luyện môn khí công. Sở đĩ phải kiên nhẫn như thế vì nếu nhặt những hạt thóc bỏ đi thì còn gì là chén cơm, lại còn phí phạm những hạt gạo mà người bạn Phan Hữu Hạnh, ngồi kế bên anh, nó bảo mỗi hạt gạo là một hạt ngọc trời cho. Nhưng nếu cứ nuốt cả những hạt thóc thì có vấn đề bế tắc .. cổng sau.
Chắc anh còn nhớ chàng tuổi trẻ Nguyễn Văn A.., lợi dụng lúc đi gặt lúa, vì đói nên hắn cứ tuốt lúa mà nhai rồi vội vàng nuốt kẻo cai tù bắt được, vài ngày sau hắn bị đau bụng dữ dội vì đường đi bị nghẽn lối, chổng mông kêu bộ đội khai thông bế tắc nhưng chúng lờ đi, may nhờ có đội phó Phan Trừng, một người lúc nào cũng hết mình vì anh em, cõng đại hắn đưa lên trạm xá để thông ống cống nên mới sống.
Chắc anh còn nhớ chiều Đông năm ấy, anh, tôi, Hạnh, Nhuận, bụng đói cật rét ngồi co ro nhìn phần cơm chiều của mình bằng mấy củ khoai lang "hà" mà ngao ngán. Khoai hà, còn gọi là khoai "sùng" đắng đến nỗi heo nó còn chê nên chúng tôi cấu bỏ đi, và thật bất ngờ, đến giờ này tôi vẫn còn không tin nổi mắt mình, hình như anh gom những miếng khoai hà đó bỏ vào miệng nuốt chửng và rồi! Anh bị nghẹn! Vì bị nghẹn bởi khoai lang sùng trong tù nên nay sống phủ phê ở hải ngoại anh đâm ra ngại ngùng phải ăn gạo ông địa! Gạo ông địa mà anh nuốt không vô thì chắc tới lúc "ông địa" nuốt anh rồi.
Do chính sách "khoan hồng nhân đạo, trước sau như một" của "kách-mệnh" không cho tù chết mà chỉ cho đói rũ xương nên tù mới biết chính sách "trước sau như một" là thế nào! Bố già Nguyễn Văn S.. được quản giáo giao cho miếng da trâu phơi khô để làm cho hắn cái "bóp", bố già đã lấy những miếng da trống thừa (da trâu phơi khô để làm mặt trống) bỏ vào loon guigoz hầm rồi nuốt và than ôi! Sau thời gian biến chế trong dạ dày, da trâu vẫn hoàn da trâu, "trước sau như một"! Còn anh sau khi no bụng bằng hai loon guigoz mộc nhĩ rồi anh đi .. thì "cốt khỉ hoàn cốt khỉ", mộc nhĩ hiện nguyên hình là mộc nhĩ, "trước sau như một" anh quên rồi sao"
Khi tên cai tù thấy anh có mộc nhĩ ăn thừa mửa, hắn ra lệnh cho anh tìm thêm cho hắn để hắn mang về xuôi làm quà tết cho gia đình thì anh than với hắn là khó tìm lắm, tôi lại "vô tình" nhanh nhẩu đoảng nói to cho cả anh và nó nghe:
- "Thì anh ra chỗ dấu hai loon gô mộc nhĩ vừa biến chế sáng nay đó".
Nghe tôi "tố cáo" xong, anh còn ngơ ngác chưa hiểu thì tên cai tù nhe răng cải mả cười:
- "Tự rác như anh lày nà học tập tiến bộ đấy nhá" (!)
Chẳng đặng đừng mới phải nhắc lại những kỷ niệm này giúp anh nhớ chứ có hay ho gì cái trò "chống đói" mà khui ra làm trò cười cho thiên hạ. Cái đói "xuyên suốt" mà theo lời cụ Phan Bội Châu nói thì bụng đói còn có thể "bới đất cuốc cỏ mà nhét cho đầy bụng đói" nhưng cái đầu mà đói mới chết. Chúng ta đã không chết vì đói nhưng trong chúng ta có nhiều cái đầu đang đói, quên hết cái đói quá khứ để áo gấm về làng, khoe khoang cái no, cái bụng to, cái rửng mỡ! Còn khi sống nhờ trên đất Mỹ "thiếu đói" này thì chê gạo ông địa ăn vào bị nghẹn cổ!
Chuyện xẩy ra mới như ngày hôm qua thôi, sáng trưa chiều tối, mỗi lần sau khi đi khổ sai về, anh thường nhìn quanh bốn bức tường trại giam rồi lẩm bẩm một mình "có cái gì ăn không nhẩy"", và ngày hôm nay, câu anh hỏi thường xuyên là "hôm nay ăn cái gì nhẩy""
Câu hỏi này nghe quen quen, đi đâu cũng gặp, từ trong gia đình cho tới ngoài đường, từ sở làm việc cho tới SPA, nơi người người đến đó để khổ công luyện tập cho tiêu mỡ. Điều đó chứng tỏ chúng ta đang sống trong một xã hội thừa mứa thực phẩm. Thừa thực phẩm là điều đáng mừng, là hạnh phúc, chứ không có nghĩa thừa thực phẩm rồi coi rẻ, coi thường của trời ban cho, có phải thế không anh"
Tôi biết anh cũng là con chiên ngoan đạo, câu nhật tụng của anh, của tôi, của gia đình chúng ta là "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày dùng đủ", đọc trước mỗi khi cầm đũa, vậy mà nỡ lòng nào anh phụ lòng thương của Thượng Đế! Hay là đã tới thời điểm anh chê gạo chê cơm"
Anh à! Biết bao thuộc cấp của anh vì không có mảnh bằng 3 năm "học đại" nên bị ở lại, nhất là những người thương binh đang sống trong khốn cùng, thiếu thốn và đói khát (chứ không phải "thiếu đói" như nhiều con vẹt hải ngoại nói ngược theo kiểu VC) thì đã có khi nào anh nhớ tới họ chưa nhỉ" Anh chê gạo trong khi họ bò lê trên đôi mông bịt vỏ bánh xe hay đi guốc bằng tay để xin từng hạt gạo đó anh! Trong chúng ta có bao nhiêu người giầu sang như anh và cũng "nghèo nàn" như anh" Tôi nhớ mãi kỷ niệm cái ngày cầm xấp vé nhạc hội gây quỹ cho thương binh mời hai ông tốt tướng phì lộn như anh, đẩy một xe thực phẩm đầy nhóc như anh, mua ủng hộ thì họ lắc đầu và tặng lại tôi hai tiếng rất lịch sự "cám ơn".
Xa hơn một chút, anh có bao giờ nhìn thấy đồng bào trong nước XHCN, quê hương yêu dấu của anh ngày trước, ngay lúc này đây, bên cạnh cái xe giá triệu đô của cán bộ thì vô số trẻ em sống trên đống rác! Có bao giờ anh nhìn thấy hình ảnh một người đàn ông gốc thiểu số cỡ tuổi anh tuổi tôi, ngồi đầu gối quá tai, khố rách thò cu ra ngoài, hai tay bới đống than tìm xem trong đó có cái gì ăn được không" Hình ảnh này y hệt như anh và tôi ngồi bên đống lửa đêm đông năm 1978 ở trại 8 Hoàng Liên Sơn.
Đêm Đông lạnh quá không ngủ được, anh và tôi ngồi bó gối bên đống lửa ở giữa nhà, tay cầm que gẩy những cục than bắn ra những tia lửa nổ lép-bép rồi cả anh và tôi vô tình cùng thốt lên một lúc:
- "Giá bây giờ mà có củ khoai vùi vào than này thì... xướng nhỉ"!
Vừa nói xong hình như cả hai chúng ta cùng nuốt nước miếng nghe cái "ực"!
Nước miếng mà nhiều như thế thì chả có cái gì có thể làm chúng ta bị nghẹn họng phải không người bạn đồng tù"
Đi xa hơn tý nữa, ra khỏi tầm nhìn của anh nên chắc anh chưa được ngắm tấm hình diễn tả về cảnh ngồi chờ chết đói đã được phổ biến trên internet, để tôi nói sơ qua cho anh biết chứ chẳng hy vọng gì anh bị "nghẹn họng":
Giữa đồng khô cỏ cháy, một em bé trần truồng chỉ còn da bọc xương sắp chết đói, không đủ sức bò đến nơi phát thực phẩm chỉ cách non cây số, em gục đầu xuống đất chờ chết! Cách đó dăm mét, một con kên kên đứng chờ em chết để ăn thịt! Kevin Carter chụp xong bức hình rồi vì lý do gì đó không cứu em mà lại bỏ đi nên chỉ ba tháng sau anh ta đã tự tử!
Những ai chưa"được" hưởng lòng khoan hồng nhân đạo trước sau như một của XHCN thì không thể cảm thông được cái đói nó như thế nào, cái đói nó đi với cái rét nó xướng tê thế nào nên họ có thể đứng trước tủ với hằng trăm bộ quần áo mà than: "Mặc cái gì nhỉ"" Họ có thể đứng trước tủ lạnh, trong đó chứa tất cả thực phẩm gồm: tôm, bò, gà, cá, heo v.v.. và hằng chục thứ trái cây rồi than: "Hôm nay ăn cái gì nhỉ""! Và đứng trước những đống gạo ngon, họ có "quyền" chọn lựa khen chê.
Nhưng anh, chúng ta, là những người đã từng ăn "tai gỗ" rồi đi .. ra mộc nhĩ, đã từng nuốt chửng khoai lang hà bị nghẹn thì chớ nên phí phạm của trời, chớ nên chê ăn gạo ông địa bị nghẹn trong khi ngay giờ phút này trên thê giới có hằng tỷ người đang thiếu ăn.
Xin Thượng Đế ban ơn phước cho anh luôn luôn được .. ăn cơm ngon miệng./.
PHI LA TO
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
04-30-2021
|
#210
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: NGƯỜI LÍNH ẤY CỦA TÔI…
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình.
Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Anh gần nổi giận cả với tôi, anh nhất định đi Nhảy Dù. Bao nhiêu giòng nước mắt cũng không cản được con người ấy. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến. Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở Tam Hiệp. Mùng sáu tết Tân Hợi 1971, Sư đòan Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong giòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa. .. Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngập tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi “phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không dấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các giòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo chiều chuộng và đem lại cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra lúc Tiểu Đoàn 5 Dù đang đóng quân ở vườn Tao Đàn. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị. .. Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đướng tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương đến thế cái con người dường như chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, “…Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh muốn làm iư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà” Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế...
Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyên vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.…” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chêt có nhau...
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi??? …
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu 505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp được, rồi anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đôt nhiên bùng phát. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Toàn bọn cán ngố từ Bắc vào và từ trong khu ra, và không kể các bậc trưởng thượng cùng anh em chiến sĩ miền Nam đang khổ sở, thì đàn ông ở miền Nam khi ấy cũng chỉ còn bọn người không đủ điều kiện để phải đi tù cải tạo, dù chỉ có ba ngày.
Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ bợ đỡ kẻ thù, thấp kém từ kiến thức đến tư cách.
Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn cướp nước và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi….
Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Không cho khiêng bọn chúng trở mặt chửi liền. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bọn dân này vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiêc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay . Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà đá sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được.
Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt bọn công an.
Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng.
Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã xung phong đi khai khẩn rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất.
Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn.
Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
- Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn. Tôi cúi mặt giận dỗi:
- Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được …
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
- Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
- Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng sáng suốt như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà.. anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu: Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em … đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy đại theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc. Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì . Mây chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc đường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần.
Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California. Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị xâu xa.
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
- Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà hà..
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
MINH HÒA
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-01-2021
|
#211
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Tô Cháo Huyết
Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon ! Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết. Ngon không chê được !
Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong... “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành ! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).
Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng “chị” rất... thời trang từ ngữ !
Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
- Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
- Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
- Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
- Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy ?
- Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
- Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả ?
- Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
- Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai ? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
- Rồi cũng quen hà. Ủa ? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi ?
- Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
- Rồi mấy đứa con thím đâu ? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa...
- Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
- Sao thím không đi ?
- Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ.Đi đâu ? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu ? Còn thầy ? Sao thầy không đi ?
- Tôi kẹt !
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết ?
Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à ?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là... thích thú. Tôi phục... tôi quá chừng !
Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết !
Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ :
- Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu mất vậy ? Vô ăn cháo đi !
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho... lấy có:
- Thím mạnh hả ?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
- Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...
- Tôi không có tiền ! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu !).
- Không có sao ! Vô ăn đi ! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà... Thầy Hai !
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
Tiếng bà xẩm vang lên:
- Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao !
Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
- Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy ?
Nó trả lời... gọn ơ:
- Tôi mắc về dưới tỉnh.
- Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả ?
- Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
- Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo !
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
- Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ ! Thầy Hai hiểu tôi không ?
Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn... Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết !
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
- Không ! Không ! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím !
- Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà ! Không tính tiền !
Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt... Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...
Tiểu Tử
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-02-2021
|
#212
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Chuyện 37 Năm Mới Kể: Trăng Tự Do
Chũm!
Một tiếng động ngắn, gọn, của một vật gì nặng vừa rơi xuống nước, vang giữa không gian biển trời lúc ấy.
Thời khắc ấy, tất cả đều im lặng trên chiếc ghe đầy người, đang trôi lênh đênh giữa biển Đông, chỉ còn tiếng sóng biển gờn gợn đập nhẹ vào mạn ghe. Một buổi sáng mai trên biển, biển rất êm, biển rất thanh bình, thế mà đã xảy ra một cuộc thủy táng trên biển.
“Nam Mô A Di Đà Phật! Thương cho chị, cầu xin cho chị sớm được về nơi cỏi Phật!”
Tiếng ai đó phá tan bầu không khí đang đặt sệt mùi chết chóc, lẩn ai oán, vừa đưa tiển một người xuống lòng biển. Hiền nằm đó trong phòng lái, nghe hết, nhưng không dám mở mắt ra, phải một lúc lâu sau, nàng mới dám hé mắt nhìn ra mặt biển, thế mà nàng vẩn nhìn thấy thân xác của một cô gái đang trôi dập dềnh cạnh chiếc ghe.
Sau nhiều ngày mắc bệnh, dáng người mảnh mai của cô đã teo nhỏ lại hơn, cô đã không còn gượng được nữa, xuôi tay im lặng nhắm mắt trong đêm, không chờ được ngày tàu tới bến bờ. Cô một thân một mình bỏ nước ra đi tìm tự do.
Chiếc ghe đã nhiều ngày trôi dạt, thức ăn, nước uống khô cạn, ai nấy đều mệt lả, một số ít thanh niên còn sức thì còn đi tới đi lui, còn lại hầu hết đều nằm hoặc ngồi bó gối, chờ ...
Chiếc ghe gổ nhỏ bé, đã lênh đênh trôi theo sóng nước chừng đâu cũng đã lâu, Hiền không còn nhớ và đếm ngày nổi nữa, phỏng chừng đã vài tuần, mang trên người nó rất nhiều người vượt biển tìm tự do.
Hiền, và chồng cùng hai con nhỏ cùng nằm trong số đó, sau nầy khi đến trại Sungai Besi, Mã Lai, được kiểm tra, mới biết con số tổng cộng lên đến một trăm người đúng, gồm cả cô gái và hai em bé xấp xỉ một năm tuổi cũng đã chết giữa biển khơi. Đến nơi, mới biết hành trình trên biển của chiếc ghe đã kéo dài ba tuần rưởi, kể từ ngày ra đi rời Việt Nam.
(Sau đó có thêm một cậu thanh niên, khi nhập trại được vài ngày, vào Sick Bay và cũng đã mất trên đất Mã Lai. Cậu đó, vì có bệnh tâm thần, không ý thức được bình thường như mọi người, nên đã uống nước máy hầm tàu khi ghe lênh đênh, không còn gì để uống.)
Số mạng của chín mươi bảy người lênh đênh trên biển đã được Ơn Trên/Thượng Đế/Trời Phật che chở, giử gìn, cứu độ, cho đến một ngày gặp được các vị ân nhân cứu mạng.
Trước ngày đi, chủ ghe đến nhà cho biết phỏng chừng một, hai ngày nữa là đi.
Vì đã ra đi nhiều lần bị thất bại, ở tù, nên lần nầy Hiền làm tất cả mọi thứ về tâm linh, mong được sự che chở. Nghe theo lời dạy của Bố Mẹ Bửu, ông bà bố nuôi, Hiền làm một buổi cúng Chư Phật Mười Phương, một mâm cơm cúng bàn thờ tổ tiên nhà chồng để tạ ơn. Ngay đêm trước ngày đi, sau khi đã đồng quỳ sụp lạy Ba Má chồng từ biệt,trong khói hương nghi ngút bàn thờ Phật, vợ chồng gạt lệ ra đi, chở hai con qua nhà bên ngoại ngủ qua đêm, tránh sự để ý của hàng xóm nơi nhà chồng.
Trong đêm vắng, đạp chiếc xe đạp, chầm chậm ngang qua những con đường quen thuộc: Hồng Thập Tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thống Nhứt, nhà thờ Đức Bà, Công Lý, Lê Lợi … Hiền ghi nhớ từng góc phố, âm thầm nhắn nhủ lời từ biệt quê hương, (không hiểu sao, lần ra đi nầy nàng có linh cảm sẽ khó có được giây phút đạp xe êm đềm như thế nầy).
Sáng sớm hôm đi, chỉ được một người em trai thứ năm đưa tiển, gia đình Hiền ngồi xe xích lô máy từ đường Nguyễn Thái Học, âm thầm từ biệt ba má Hiền và các em khác đang còn ngủ, đi ra xa cảng Miền Tây. Gặp người dẩn đường ở bến xe Phú Lâm, vì đã được dặn dò trước đó, thấy anh ta đi đâu thì cứ bám theo mà thôi, không được nói năng gì cả, làm vợ chồng Hiền mắt cứ phải láo liên theo dỏi bóng dáng anh.
Trưa, xe đò đến Cần Thơ, anh ta dẩn đến một chợ nhỏ và dặn chờ ở chợ, sẽ có người đến liên lạc sau, rồi anh ta mất dạng.
Sau nhiều giờ quanh quẩn, vòng vòng quanh chợ, với tâm trạng lo âu bất an, vì nhìn đâu cũng thấy nhiều người giống mình, kẻ ngồi quán nước, người đứng góc đường, ngổn ngang, nhìn là biết “dân ta” Saigon xuống, tìm đường ra đi. Chợ thì thưa dần, người mua bán thật sự cũng biến mất từ từ, mà vợ chồng Hiền vẩn cứ rảo bước quanh chợ.
Gia đình Hiền, hai vợ chồng dẩn hai đứa con nhỏ, với một bó rau muống lủng lẳng trên tay, cứ xách tới xách lui quanh chợ vắng, rau bắt đầu héo úa vì nắng trưa, họ không dám ghé vào quán, đi riết cũng mệt, cũng không biết phải làm gì, đi đâu. Trong ruột rối bời, sợ công an bắt, vợ chồng Hiền đã từng ra đi nhiều lần, hụt có, bể có, từng vào tù Bến Tre … nên rất là căng thẳng, dù ngoài mặt cố giử vẻ điềm tỉnh.
Trời xế chiều dần, chợt thấy bóng dáng anh ta trở lại chợ, hai vợ chồng mừng quá, và được anh ta dẩn đường đến một bến đò kế bên chợ, chỉ cho lên một ghe tam bản nhỏ có mui, như bạn hàng tan chợ về. Đang lần dò đi tới để lên ghe, bổng nhiên có tiếng gọi tên con gái Hiền:
- “Ê, Quỳnh Như, mầy đi đâu đó?”
Con gái nghe kêu tên, nhìn lại, nhận ra một người bạn tiểu học cùng lớp thời bấy giờ ở Saigon. Hiền đẩy con đi nhanh lên ghe, cho khuất tầm mắt. Đúng là trái đất tròn và trời bất dung gian! Cuối cùng rồi cũng lên được chiếc “tắc”. Hiền nghĩ: “Giờ phút nầy, tới đâu thì tính tới đó, ra khỏi chợ là mừng rồi”. Ghe chèo một đổi cũng khá xa, vào một con lạch nhỏ, và tiếng người chèo ghe nói vọng vào khoang:
- “Bà con lên ghe từ từ, cẩn thận, êm thắm.”
Nơi ghe cặp vào là một chiếc ghe bầu lớn. Vào trong khoang đã thấy lố nhố người ngồi sẳn. Sau đó, từng ghe, từng ghe một đưa người đến nén đầy khoang ghe bầu. Trời tối dần, đến đêm thì ghe bầu nhổ sào, chạy ra khỏi nơi đó, Hiền cảm thấy có gió mát lùa vào trong khoang, đoán là ghe bầu đã ra sông cái. Chạy một khoãng nữa, rồi tiếng máy giảm bớt tốc độ, dường như cặp vào bên bờ sông, nghe tiếng nói vọng vào ghe bầu, tìm hai người tài công để lên “cá lớn” trước, rồi sau đó lần lượt chuyển tất cả người lên, trong một cách vội vàng, nhanh chóng. Tất cả đều cho xuống hầm qua một lổ vuông vức, đó cũng là diện tích duy nhất để không khí lọt vào trong hầm. Hầm chứa cá mà.
Hiền và hai đứa con cũng không ngoại lệ, vì sợ lạc chúng nên luôn nắm chặt tay hai đứa nhỏ và miệng luôn thì thầm kêu tên chúng, nói với chúng để trấn an. Trong hầm tối đen, người thả xuống sau thì phải dẩm lên người ngồi trước, đạp phải nhau, la hét lung tung, làm phải có tiếng nói từ trên boong vọng xuống mới im đôi chút.
- “Bà con có im lặng không? Tàu tuần nó đến gần thì lộ hết bây giờ, tàu chưa ra đến biển.”
Tiếng máy tàu vẩn chạy đều, nhưng trong hầm thì không khí bắt đầu quá ngột ngạt, con nít la khóc, mẹ thì vì con mà cấu véo người kế bên để dành thêm diện tích cho con mình, mà chổ trống đâu mà xích bây giờ? Hiền bị đạp lấn đủ bề, nàng cho hai con ngồi trên hai cái đầu gối của nàng, để cho tụi nhỏ được cơi cao hơn, hít thở được phần nào không khí từ miệng hầm. Ba mẹ con mà chỉ có một chổ ngồi.
Những chuyện xảy ra trên boong như thế nào, dưới hầm đều nghe, tàu tuần duyên phòng đi ngang qua ghe vượt biên, bên nầy họ phải nhá đèn làm hiệu, đội nón bộ đội lên, như mình là ghe đánh cá quốc doanh thực sự. Đúng là nín thở qua sông.
Cho đến một lúc, con trai nhỏ ốm yếu của Hiền không chịu đựng được nữa, dù đã được nàng dùng hai cánh tay thay phiên nhau đưa nó lên cao hơn, gần với miệng hầm để nó thở, nó trở nên dẹo nhẻo trên cánh tay nàng. Hiền hoãng sợ quá, nhân một lúc có người trên đó đứng gần miệng hầm, nàng la lớn lên, xin nhắn với ba nó dùm, cho nó lên trên để thở, không thôi nó chết. Một lúc sau, thằng nhỏ được người đến đem lên khỏi hầm.
Cuối cùng thì mấy người đề-lô trong sông phải từ giả trở về, bàn giao cho tài công lèo lái. Dưới hầm lắng nghe, Hiền đoán biết đã tạm ổn, nhìn đứa con gái nhỏ của nàng, cũng dần dần mệt nhiều vì thiếu không khí thở, nhưng vì thương mẹ nên chịu đựng, không rên la, nàng lấy sức chồm lên miệng hầm, nhắn xin cho con gái được lên trên boong với em nó.
Gần ra đến cửa biển, sóng bắt đầu dập vồn, mọi người dưới hầm đều được thong dong, ai không sợ biển thì lên trên boong cho thoáng mát hơn.
Chiếc ghe rời Việt Nam ban đầu cũng gặp nhiều nổi gian nan trong sông, mấy phen hú vía nhưng đều qua khỏi. Âm thầm chạy trong đêm tối, qua nhiều lần né tránh các hàng đáy, lúc gần ra cửa biển, chiếc ghe bị mắc cạn khi trời hừng sáng, rướng lên cồn cát, ai nấy đều hoãng kinh, chẵng khác gì cá nằm trên thớt. Tất cả thanh niên trên ghe nhảy xuống, dồn hết sức lực, đẩy chiếc ghe ra khỏi cạn, và ghe đã tiếp tục ra đi. Cuối cùng cũng ra được đến cửa biển khi trời đã sáng dần.
Ghe đang chạy thì nhác thấy dạng ghe đánh cá quốc doanh xa xa, kỳ nầy thứ giả gặp thứ thiệt, nên chiếc ghe nầy phải chạy hết tốc lực, để tránh bị nó ví bắt. Rồi cũng thoát. Hú hồn!
Tránh né được người, nhưng không tránh né được ông trời. Quả là như vậy, chạy được một lúc thì giông gió nổi lên ầm ầm. Sóng nào sóng nấy cao ngất ngưỡng, chiếc ghe cắt sóng mà đi, chao đảo, nhưng ý chí của hai người tài công nầy không thay đổi và suy suyển. Có lúc ngọn sóng cao làm cho chiếc ghế tài công ngồi trong phòng lái, trượt từ bên nầy qua bên kia, họ phải tìm cách đứng vững trên đôi chân để cầm lái. Họ quyết tâm ra đi để tìm một cuộc sống tự do cho chính mình và cho những người đồng hành.
Trời dần sập tối, nhưng biển vẩn động mạnh, sóng vẩn cao, ghe vẩn cắt sóng mà đi. Được một lúc, có một số người trên tàu, chứng kiến trước mắt những ngọn sóng cao, gối đầu nhau, liên tiếp phủ ập vào ghe, họ đâm hoãng, lớp bị dập sóng, say sóng nên họ yêu cầu tài công cho ghe quay trở lại đất liền, dù có bị bắt cầm tù họ cũng cam chịu. Hai người tài công phải ậm ừ với họ cho qua chuyện, không làm mích lòng ai lúc nầy. Hiền cũng vô cùng lo sợ, nhìn thấy sóng quá cao, không biết sẽ nuốt chững chiếc ghe lúc nào không hay, nhưng nghĩ rằng:
“Ra đi là phải chấp nhận, tìm cái sống qua cái chết!” Nên nàng tiếp tục niệm kinh và giử vững đức tin qua những gì nàng đã cố gắng làm về tâm linh, xét thấy mình đã làm tất cả những gì có thể. Hai tài công cũng đã cố gắng rất nhiều, giờ thì phó mặc cho số mạng mà thôi.
Nhìn thấy ánh đèn sáng xa xa phía trước, mừng rở, chiếc ghe chạy đến gần, thì ra đó là một dàn khoan trên biển, có đông người đứng trên nhìn xuống nhưng nhìn lá cờ và dòng chử viết thì biết đó là Liên Sô, chiếc ghe lại quay đầu sang hướng khác, rời càng xa, càng nhanh càng tốt.
Trong lúc giông bảo, ghe bị sóng dập, Hiền nhìn thấy những thùng can nhựa lớn, chứa nước hay dầu máy, được cột chặt vào nhau chung quanh thành ghe, thay phiên nhau rớt xuống biển, có cả một cần xé chanh tươi cũng theo sóng nước mà ra đi. Chứng tỏ chiếc ghe nầy cũng được chuẩn bị nước uống đầy đủ, tạm cho chuyến đi biển ngắn ngày.
Đêm tối đen thăm thẳm, cơn giông dịu dần, nhưng biển vẩn là biển, vẩn sóng gió, ghe vẩn phăng phăng đi, ra hướng hải phận quốc tế, không dám men theo cận duyên, sợ gặp phải ghe hải tặc Thái Lan. Mọi người đều yên nghỉ, hết đòi hỏi quay về. Hiền nhìn hình ảnh hai tài công trong phòng lái, âm thầm chụm đầu vào nhau tính toán, giúp nhau lèo lái chiếc ghe trong bóng đêm, mà thấy thương cảm cho cả một chế độ, một thế hệ … phải đành lòng bỏ lại quê nhà hai bên cha mẹ già như vợ chồng nàng đây, bỏ quê hương đất nước mà ra đi. Dù biết bài toán nan giải, chưa biết đáp số sẽ ra sao, nhưng phải đi, tìm đường sống qua cái chết thôi, không còn sự chọn lựa nào khác.
Sang sáng thứ ba (?), (Ngồi viết hôm nay, Hiền không còn nhớ rỏ chính xác ngày, thế mới biết trí nhớ mai một với thời gian, không còn sắc bén như ngày nào, nên nay nàng phải viết ra ở cuối đời nầy, kẻo bị con Alzheimer đến kiếm) chiếc ghe cạn dầu, cần châm dầu thêm, kiếm ông cơ khí thì ông đã nằm mẹp từ bao giờ, nên phải nhờ các thanh niên khỏe mạnh giúp, các anh sốt sắng, nhưng đã không phân biệt được, can nào là can dầu, can nào là can nước. Ghe đang chạy êm, dưới hầm máy các anh châm dầu (?) vào, thì tiếng máy kêu “phụp” một cái, rồi tắt ngúm. Tài công biết ngay là châm lộn nước thay vì châm dầu. Biết sao bây giờ? Âu là định mệnh.
Hầu hết đàn ông cùng xuống hầm máy, phụ nhau tìm cách sửa chiếc ghe cho chạy trở lại. Nhưng cuối cùng thì vô vọng: nước đã vô lốc máy.
Ghe lênh đênh trên biển.
Có một điều Không-Tưởng là suốt khoãng thời gian trôi dạt, hầu hết mọi ngày, mặt biển rất thanh bình, êm như mặt hồ. Biển thương chiếc ghe mong manh, biển thương phận người vượt biển, nên biển rất ít nổi cơn thịnh nộ, không nở nhận chìm chiếc ghe nhỏ.
Hiền nghĩ nàng nói điều nầy không ngoa, nếu ai đã từng cùng đi trên chuyến ghe nầy (SP… , trại Sungai Besi, 1984) và đọc được bài, thì đã là chứng nhân cho điều kỳ diệu nầy. Chỉ có hai lần giông to, mưa lớn, giúp người trên ghe tìm cách hứng nước mưa mà uống, khi không còn nguồn nước ngọt nào. Chồng Hiền lấy poncho, làm áo mưa mang theo, ngồi ngoài trời hứng từng giọt nước mưa trên poncho, chiết vào chai nhỏ, cho cả bốn người uống từng ngụm cầm chừng.
Ngày qua ngày, thanh niên còn khỏe chia phiên nhau tát nước dưới hầm ghe, để chiếc ghe vẩn được nổi trôi …. Hầu hết người trên ghe đều lên boong, hướng mắt bốn phương trời, tìm kiếm tàu thương thuyền ngang qua mà quơ vẩy cầu cứu. Biển rất êm, cá đi từng đàn thấy rỏ dưới mặt nước, có lần nàng thấy từng đàn cá thu; từng đàn cá nhỏ, mà thịt trong suốt thấy cả xương bên trong, tên gọi cá sơn, và có cả đàn cá heo bơi lượn diểu chung quanh ghe. Các em trẻ, biết bơi, nhảy xuống biển bơi như ở piscine. Hiền thì chỉ dám ngồi trên be ghe, thòng chân xuống nước cho mát mà thôi, mắt nhìn trời cao xanh thẵm, hướng theo những vệt khói trắng nhỏ phun ra từ chiếc máy bay phản lực nào đó, mà mơ ước được đến bến bờ tự do ...
Ngày nầy qua ngày nọ, rất nhiều tàu đi ngang qua, gần có, xa có, có khi nhìn thấy rất rỏ, họ dàn hàng ngang trên tàu, đứng nhìn qua chiếc ghe, rồi đi mất hút. Họ quá đổi vô tình hay họ có lệnh của chính phủ nước họ không được nhận người tị nạn nữa. Đêm đến, cả ghe cũng không yên ngủ, gom sẳn quần áo làm giẻ vụn, sẳn sàng để đốt làm hiệu khi thấy tàu hàng nào đi ngang qua. Đã nhiều lần đốt giẻ làm hiệu, quơ vẩy đủ cách, nhưng vẩn lênh đênh. Vô vọng! Và bắt đầu cảm nhận nổi tuyệt vọng đang thành hình và lớn dần theo từng ngày trôi qua.
Có vài lần, vì quá tuyệt vọng mong tàu đến vớt, mà đã có những thanh niên trai tráng, cảm thấy còn sức lực, khi thấy những con tàu lớn đi ngang qua gần ghe, họ xin ai trên ghe còn chút thức ăn như đường … cho họ xin để ăn lấy sức. Rồi họ nhảy ùm xuống biển, bơi lấy bơi để, về hướng con tàu, với hy vọng người trên tàu thấy họ, vớt lên, để xin được cứu vớt chiếc ghe. Nhìn theo dáng họ bơi xa xa, đầu lặn hụp trên mặt biển khơi mà Hiền thót ruột, không biết họ có quay về ghe được không? Thế mới biết khi con người đã quá mức tuyệt vọng, lý trí nhường chổ cho ngông cuồng. Cuối cùng họ cũng bơi trở lại, về được với chiếc ghe lênh đênh. Hiền thở phào nhẹ nhỏm.
Thức ăn không có, nhưng nước uống phải có, nên mấy ngày đầu trôi dạt, các ông, khi ấy còn khỏe, xuống hầm máy, tìm các phụ tùng nào của ghe có thể chế biến tạm thành bình thông hơi để cất nước biển ra thành nước ngọt mà uống. Dù cất ra được rất ít ỏi nước ngọt, cả một ngày trời chỉ được chừng nữa chai xá xị, nhưng cũng giúp sống sót trên biển, chờ tàu đến vớt. Ban ngày chồng Hiền cất nước, ban đêm thì cho một gia đình, gồm ba cô cháu, mượn mà cất nước uống, tạm sống sót qua ngày. Tưỡng đâu như thế tạm yên, cho đến một đêm, đang thiêu ngủ, nghe một tiếng vang “chũm!”, một vật gì vừa rớt xuống nước, và tiếng nói của một cô vang lên, nghe như là tiếng của cô gái mà gia đình Hiền cho mượn đồ cất nước, rầy la cậu trai trẻ vì đã làm rớt dụng cụ đó xuống biển rồi! Vợ chồng Hiền nằm đó im thinh thít, không dám lên tiếng, chỉ biết thấm thía, nghĩ đến những ngày sau sẽ không còn nước ngọt để uống … Định mệnh!
Sáng hôm sau, cô ấy xin lổi, báo cho biết tin, vợ chồng Hiền nói lời thông cảm với cô, vì từ đây cả hai gia đình đều cùng chịu chung số phận “chết khát”.
Một ngày, nghe tiếng trẻ con nói, mà xót xa:
“Bé Tài khát nước quá cô Sinh ơi. Cho bé Tài uống nước đi.”
“Nè, uống đi.”
“Sao cô Sinh cho bé Tài uống nước đái? Hồi nảy, cô Sinh biểu Bé Tài đái vô chai nầy, Bé Tài nhớ mà. Bé Tài hổng uống đâu.”
“Không uống thì thôi. Cô Sinh không có nước gì khác. Bé Tài khát thì ráng chịu.”
Hiền nằm đó, nhìn hướng cô cháu họ, thấy cậu bé Tài dể thương kia, đang cầm cái chai có chút nước màu vàng mà hớp một cái. Nó nhăn mặt, nhưng cũng nuốt vô để thỏa mản cơn khát lúc bấy giờ. Bé Tài lúc đó vào khoãng ba, bốn tuổi gì đó. Cô Sinh quay qua Hiền nói:
“Không còn gì cả, em phải để dành lại nước đái của nó, ngừa khi nó khát, đòi uống thì em có mà đưa”.
Thế mà sau đó vài ngày, trời đổ xuống hai lần, cho hai trận mưa lớn, nên khỏi chết vì khát: Số mạng.
Hiền nhìn thấy mây đen vùn vụt đến từ xa, cuối chân trời, thói thường thì phải lo sợ vì chiếc ghe chết máy, lênh đênh, có thể bị nhận chìm, nhưng Hiền lại vui vì sắp có nước uống rồi. Mưa lớn mịt mù, trắng cả không gian biển, chiếc ghe chòng chành, chao qua chao lại, ông xả Hiền lại ra giữa boong, đội poncho, ngồi chịu khó hứng được một ít nước mưa, nhờ vậy mà uống cầm chừng từng ngụm nhỏ, cho đến những ngày cuối cùng, khi đã kiệt sức vì khát, thì cũng là lúc các vị ân nhân đến cứu mạng.
Ngày qua, ngày lại, không biết đến ngày thứ mấy, ghe vẩn lênh đênh, không biết trôi dạt đến đâu, nhưng chắc chắn là chiếc ghe nằm ở vị trí tuyến đường thương thuyền quốc tế qua lại, vì vẩn có rất nhiều tàu đi ngang qua, chỉ là họ không muốn vớt chiếc ghe nầy mà thôi. Có lần thấy một chiến hạm ngang qua, trên boong, cả một nhóm, mặc toàn quân phục trắng như Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa, dàn hàng ngang nhìn sang chiếc ghe, xa xa họ chỉ đứng nhìn mà thôi, và rồi cũng đi mất hút.
Có các anh còn khỏe, đói quá chịu không nổi, tìm cách làm cây mác đâm cá, gốc gác họ ở vùng biển nên họ rất thành thuộc, họ chỉ cách cho ai muốn bắt cá. Hiền khuyên ông xả không nên làm theo, vì trước lúc ra đi, ngày nào nàng cũng phóng sanh, thì không vì cớ gì mà bây giờ đang gặp nạn giữa biển, mình vướng vô sát sanh. Chết thì chịu thôi. Chồng nàng nghe theo lời khuyên.
Thế nhưng, một miếng khi đói bằng một gói khi no, khi anh bạn tài công ngồi trên mui ghe, kêu ông xả, đưa cho một con cá nhỏ vừa mới xiên được, cho gia đình Hiền có hai con nhỏ, đang đói lả, được nhấm chút ít chất protein đở dạ. Cám ơn anh đã có lòng chia xẻ.
Anh là người bạn duy nhất của ông xả trên ghe, đồng cảnh ngộ, đồng chí hướng ra đi và cũng đồng tâm ý phóng sanh, cầu mong cho chuyến đi được đến bến bờ. Vì thấu hiểu được sự cộng nghiệp khi đi cùng một chuyến ghe đông người, nên Hiền đã giải thích rỏ cùng anh, trọng trách nặng nề của tài công khi lèo lái ra đi, nắm trong tay bao nhiêu là sanh mạng; đi chung với một nhóm đông như thế thì cộng nghiệp là một điều khó mà tránh khỏi … Nên phóng sanh để giải bớt nghiệp chướng là điều cần làm, anh đồng ý và đã góp phần, giao phó việc phóng sanh cho Hiền, với toàn tâm, toàn ý và tự nguyện.
Nhiều ngày lênh đênh giữa biển khơi như vậy, lòng thành, niềm tin vào Đạo Pháp của Hiền cũng bị suy suyễn, dù vẩn âm thầm niệm kinh hằng ngày, nhưng mỗi khi thấy tàu lớn ngang qua mà họ lơ đi, nàng bị hụt hẩng, và dần cảm thấy tuyệt vọng.
Cho đến một buổi chiều, cả ghe đồng reo lên, kinh ngạc, pha lẩn chút gì vui mừng, vì sự hiện diện của một con chim sẻ nhỏ bé, đậu trên chóp mủi ghe.
Một điều kỳ lạ Không-Tưởng, giữa biển khơi.
Con chim sẻ chỉ ở với chiếc ghe vài giờ rồi bay đi, nhưng đã đem đến một nguồn sinh khí mới, một niềm hy vọng cho cả ghe. Một điềm lành.
Không ai có thể biết được tâm trạng Hiền hân hoan, vui như thế nào. Cuối cùng, lòng thành của nàng, pháp phóng sanh vi diệu, đã được thực chứng nơi con chim nhỏ bé nầy. Hiền thầm cảm tạ chư Phật Mười Phương. Nhớ những ngày đạp xe qua Lăng Ông Bà Chiểu mua chim phóng sanh; những buổi sáng đi chợ, Hiền dành tiền mua tép còn sống, những con ốc, lên cầu gần chợ, thả xuống phóng sanh, tất cả với niềm tin vô biên cho một đời sống tự do. Nhưng giờ đây, còn bao lâu nữa ghe mới được cứu vớt?
Một buổi sáng, Hiền nhìn ông xả mắt nhắm, nằm dài trên chổ để hải bàn trong phòng lái, không còn đứng dậy đi đứng nữa, nàng rất lo sợ, biết là anh đã kiệt sức rồi, không ăn uống nhiều ngày như vậy, sức lực nào mà còn? Nàng đứng cạnh bên, lo lắng, hỏi chồng một cách tuyệt vọng, hỏi chỉ để mà hỏi thôi, và cũng để muốn nghe anh trả lời, biết anh vẩn còn đó với Hiền:
“Sao chưa thấy tàu nào vớt ghe mình hết vậy anh? Bố nói mình đi được mà.”
“Ráng giử vững đức tin đi!” Ông xả Hiền trả lời, mà mắt vẩn nhắm.
Đột nhiên, ngoài boong có tiếng la lên:
“Máy bay, bà con ơi. Mau lạy, vẩy tay đi. Càng đông càng tốt. Đàn bà con nít đâu ra đây.”
Hiền vội chạy ra phía ngoài, nhìn lên, thấy một chiếc máy bay nhỏ, loại Cessna, bay trong tầm mắt nhìn, không cao lắm, đang lượn vòng vòng quanh chiếc ghe.
Mừng quá, nàng chạy vào cho ông xả hay tin.
Rồi lại chạy ra, nhìn lên máy bay, lần nầy thấy rỏ được có người trên đó đang xem ống dòm nhìn xuống chiếc ghe. Lòng mừng khấp khởi, Hiền hiểu rằng, chiếc ghe nàng sẽ được cứu vớt. Sau khi lượn thêm vài vòng, chiếc máy bay Cessna mất hút về chân trời.
Nàng nhìn thấy tất cả người trên ghe lúc đó, quỳ xuống trên boong chấp tay lạy lia lịa, vẩy tay với lên hướng máy bay, với hy vọng viên phi công trên đó phần nào cũng hiểu được chiếc ghe nầy đang gặp nạn trên biển.
Hiền chạy vào phòng lái, nói với chồng:
“Nó bay đi rồi, nó cũng thấy mình, chắc mình sẽ được cứu, phải không anh?”
“Như vậy là được rồi, nó sẽ tìm cách cứu vớt mình, chờ thôi!” Ông xả vẩn nằm dài mà trả lời nàng.
Kể từ phút đó, ai cũng ngóng nhìn, trên trời, trên mặt biển.
Rồi, Hiền nhìn thấy một chấm đen rất nhỏ xuất hiện ở cuối chân trời. Nàng tiếp tục theo dỏi, từng lúc từng lúc, thấy chấm đen đó càng lớn dần, hiện rỏ hình dáng một chiếc tàu và đang hướng về chiếc ghe nàng. Nàng lại chạy vào, báo tin cho ông xả:
“Dường như có tàu tới cứu mình, anh ơi. Anh ráng ngồi dậy đi anh.”
Và Hiền lại chạy ra ngoài, nàng tiếp tục quan sát, lần nầy lại thấy chiếc Cessna ban nảy xuất hiện trên bầu trời đàng xa, bay trên đầu chiếc tàu lớn, cả hai đều hướng về chiếc ghe. Cả ghe reo hò, mừng rở. Tiếng ù ù của chiếc Cessna đến gần hơn, lúc nầy Hiền mới bình tỉnh nhìn và thấy được hàng chử trên thân máy bay: US Navy, khi nó lượn vòng vòng quanh chiếc ghe. Khi đó nàng cũng đoán hiểu được, chiếc Cessna bay đi tìm tàu thương thuyền nào gần đó, hướng dẩn đến cứu giúp chiếc ghe trôi dạt nầy.
Chiếc tàu đến gần hơn, hiện ra là một chiếc tàu thương thuyền lớn. Còn cách chiếc ghe một đổi thì tàu ngừng lại, thả xuống một chiếc xuồng cao su nhỏ, có người cầm loa ngồi trên. Xuồng máy đến gần chiếc ghe lúc nhúc người, dùng tiếng Anh hỏi xem có cần thức ăn hay dầu, họ sẽ cung cấp cho.
Trên ghe nghe vậy, liền cử cô Ngọc đại diện trả lời, yêu cầu được cứu vớt vì máy ghe đã hư hỏng, đã trôi dạt nhiều ngày qua. Họ đồng ý cho cô lên xuồng máy, trở lại tàu gặp Thuyền Trưởng trình bày. Chiếc máy bay vẩn tiếp tục bay vòng quanh khu vực ghe và tàu.
Khi cô Ngọc trở lại ghe báo tin: “Sau khi biết rỏ tình trạng chiếc ghe, đồng thời Thuyền Trưởng cũng liên lạc với viên phi công, họ chấp thuận sẽ vớt chiếc ghe vượt biển nầy”.
Người trên ghe, nghe tin xong, như chết đi sống lại, người chảy nước mắt ràn rụa, người sụp lạy trời đất … Ông xả Hiền lúc đó gượng ngồi dậy và ôm vợ con mà ngả nghiêng, đứng không vững:
“Mình sống rồi!”
Nhanh chóng, chiếc tàu di chuyển đến gần ghe. Họ điều người của họ qua ghe, giúp đở từng người một leo lên thang dây để lên tàu. Tay chân Hiền bủn rủn, không còn sức lực, phải có người dìu vịn mới lên được tàu. Trời chiều đã sẩm màu, chiếc ghe chìm dần dần, từ từ xuống khuất khỏi mặt nước biển, khi mọi người đã lên được tàu.
Đêm đó, được nằm duổi tay chân trên boong tàu thương thuyền, nhìn lên bầu trời trong, dưới ánh trăng rằm, tròn, vành vạnh sáng, mà chưa bao giờ trong đời Hiền được nhìn thấy một trăng tròn lớn như thế, sáng như thế.
Nằm giữa biển trời bao la, cảm nhận được sự bảo bọc an toàn của chiếc tàu thương thuyền, hoàn toàn khác với đêm trước, nằm trên ghe lênh đênh trôi dạt, nàng thầm niệm kinh cảm ơn Chư Phật độ trì, tự nhủ:
“Chúng tôi đươc sống rồi!” Và kìa:
“Ánh trăng Tự Do!” Sau chín năm, mới có được sự Tự Do trở lại.
Thật là như vậy, làm sao có được diễm phúc ngắm trăng sáng, tròn, giữa đại dương mênh mông bao la, không có gì áng ngữ che tầm mắt, mà chỉ thuần một con trăng tròn mà thôi.
Đức tin của Hiền càng mạnh mẽ hơn, khi ngay đêm sau, thủy thủ đoàn ra boong di chuyển tất cả thuyền nhân vào bên trong những hốc nghách nào có thể, sát cạnh vách tàu; họ cho biết là một cơn bảo lớn sắp đến. Hiền nghe xong mà rùng mình, cảm nhận được số mạng, đất trời thay đổi chỉ tích tắc mà thôi, nếu không có chiếc tàu ân nhân nầy, cứu vớt chiếc ghe, đem lên tàu đêm trước, thì tất cả chín mươi bảy thuyền nhân nầy có lẽ đêm nay phải nhận đại dương là mồ chôn thân.
Sau nầy đến trại Sungai Besi, khi vào phỏng vấn, được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Mã Lai cho biết, chiếc ghe của nhóm mang tên: SP--- , chỉ ở tạm cư tại trại trong khoãng ba tháng mà thôi, tất cả đều phải định cư, bằng mọi cách: thân nhân bảo lảnh hay diện nhân đạo … Bà ấy cũng cho biết thêm rằng, viên phi công chiếc máy bay Cessna đã đồng ý với chiếc tàu thương thuyền rằng, con tàu cứ đến vớt thuyền nhân lúc đó, mà không phải chịu trách nhiệm về vấn đề định cư, mọi lo liệu về sau sẽ do viên phi công của chiếc máy bay Cessna - US Navy chịu trách nhiệm, và liên lạc với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Tế Về Người Tỵ Nạn (UNHCR).
***
Nhân đây, tôi cũng muốn xin nói thêm rằng:
“Rất tri ân hai viên phi công người Mỹ trên chiếc Cessna, dù các ông hiện giờ còn hay đã mất, chúng tôi vẩn không quên hai ông, lúc đó đã có lòng nhân từ, thương xót đến chiếc ghe nhỏ bé hoạn nạn trên biển, thương xót cho một dân tộc phải ra đi vượt biển tìm tự do, đánh đổi bằng cả mạng sống. Đã có những người Mỹ như hai ông đây, dù cuộc chiến đã tàn, nhưng vẩn không quên con dân của một nước Việt Nam Cộng Hòa, và hơn hết các ông đã cho chúng tôi mạng sống vô giá trên biển.”
“Cũng không quên tri ân vị thuyền trưỡng giàu lòng nhân đạo và thủy thủ đoàn, người Đại Hàn, của chiếc tàu thương thuyền (Pearl Ocean (?) đăng ký Panama) đã mở lòng đón cả trăm người chúng tôi lên tàu, quan tâm chăm sóc chúng tôi từng miếng ăn, cho đến ngày rời tàu tại cảng Penang, Mã Lai. Thử nghĩ, khi không mà trên tàu có thêm một trăm người bất ngờ đến sinh hoạt, thay đổi nếp sống hằng ngày của một chiếc tàu bình thường, thì lại cũng là một sự Không-Tưởng, nhưng họ đã làm rất tốt với đầy ắp tình người. Khi đưa tiển, ai cũng rơi nước mắt, dù chỉ có vài ngày gặp gở.”
Tôi xin tán thán công đức của các vị ân nhân, dù có muộn màng, tôi không có cách nào đền ơn các vị trong đời nầy, nhưng các vị đã cho tôi niềm tin mãnh liệt vào Đạo Pháp của tôi. Tôi không trả ơn trực tiếp đến các vị được, nhưng xin trả ơn gián tiếp qua các việc thiện mà tôi làm, tiếp nối tinh thần nhân ái bất-vụ-lợi. Các vị luôn là những tấm gương quý giá về Tình Người, Lòng Nhân Từ, áp dụng trong tất cả mọi hoàn cảnh sống./.
BẠCH ĐẰNG.
Tháng Tư, năm 2021.
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-02-2021
|
#213
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Người Vợ Tù H.O. Lạc Loài.
Chị phải lòng anh khi vừa mười bảy tuổi- cái tuổi "bẻ gãy sừng trâu" của cô nữ sinh một trường Trung học nổi tiếng ở Saigon, vừa thi trượt tú tài, được bố mẹ gởi gấm cho gia đình cậu mợ ở Đà Lạt để cô con gái cưng khuây khỏa nỗi buồn và ôn lại bài vở cho đợt thi tú tài lần hai..
Cậu chị dạy học ở trường Võ Bị Đà Lạt. Cuối tuần nhà ông bà thường là nơi dừng chân của những chàng sinh viên cô độc, muốn tim chút không khí gia đình. Nhất là từ khi nhà ông thầy có cô cháu gái xinh đẹp từ Saigon lên trọ học, không khí càng đông đúc nhộn nhịp hơn vào những ngày cuối tuần.
Anh - Chàng sinh viên Võ Bị Đà Lạt Bắc Kỳ cao lớn, đẹp trai. Ánh mắt đa tình, giọng nói ngọt ngào, êm ái đã dễ dàng lọt vào mắt xanh của chị trong lần gặp gỡ đầu tiên.
Đà Lạt - thành phố sương mù thơ mộng với những căn nhà nho nhỏ đầy hoa vàng nằm trên những sườn đồi thoai thoải. Với Hồ Xuân Hương, Thủy tạ, thác Cam Ly, hồ Than thở, đồi thông hai mộ - đã tạo nên mối tình lãng mạn của đôi trai tài, gái sắc. Để rồi khi anh ra trường cũng là lúc chị từ giã tuổi học trò hoa mộng, ngoan ngoãn "theo chồng bỏ cuộc chơi". Chấp nhận làm vợ lính, đời sống gian khổ nhiều rủi ro. Để anh yên tâm chiến đấu, làm tròn nghĩa vụ trai thời ly loạn.
Một bé trai rồi một bé gái ra đời- vẽ nên một bức tranh gia đình hạnh phúc hoàn hảo hơn.
Hạnh phúc những tưởng luôn mỉm cười với chị thì biến cố lịch sử 30-4-75 xảy ra. Nước mất, nhà tan. Chị ôm hai con và bào thai trong bụng về Saigon tá túc nhà ông bà ngoại chờ ngày sanh đẻ, đồng thời nghe ngóng tin tức của chồng.
Cùng chung số phận đau thương của đất nước, chị cũng như những người vợ lính khác:
Chồng, tù cải tạo mịt mùng.
Vợ, kinh tế mới thay chồng nuôi con.
Sinh con thứ ba xong, chưa kịp cứng cáp chị gởi con cho mẹ bương chải ra chợ trời để lo cho đàn con nhỏ dại. Nhà có gì đành đem ra bán hết. Cực khổ trăm bề. Nhiều lúc đầu đội nón lá, tay cầm những chiếc áo dài thêu của mẹ, của chị...chạy ngược chạy xuôi, cố nén nước mắt để chào mời những người khách lạ- không mời mà đến. Họ như những người đói khát từ lâu, vơ vét tất cả.
Vất vả một thời gian và cũng không còn gì để bán. Nhớ thời kỳ ở Đà Lạt, chị có tay nghề đan len bỏ chợ nên làm đơn xin vào tổ hợp đan len của phường. Gần một năm sau chị biết tin anh đang đi tù, học tập cải tạo ở Hàm Tân. Nhờ lao động tốt, chị được cấp giây phép đi thăm nuôi. Giờ đây gánh nặng đôi vai càng nặng trĩu hơn-một bên cho con, một bên cho chồng.
Thời gian này những người vợ trẻ trước viễn cảnh đen tối, có người liều mình dẫn dắt con thơ đi vượt biên, có người lo sợ không nơi nương tựa rẽ thuyền sang bến khác.
Riêng phần lớn và chị:
Còn trời, còn nước, còn non.
Trung trinh vợ vẫn lòng son đợi chờ.
Lòng son sắt của chị rồi cũng được đền bù. Gần mười năm sau anh được thả trở về đoàn tụ gia đình trong nước mắt. Ngày anh đi tù hai đứa con còn nhỏ, đứa út chưa biết mặt cha. Chị " thân cò lặn lội nuôi con ", dạn dày sương gió, héo úa xuân thì. Anh, sau những năm tháng tù đày, nhờ được cải tạo đã trở về với thân hình tiều tụy, gương mặt hốc hác, trầm tư, it nói với mặc cảm của người chiến binh bại trận, tuy đã thoát khỏi trại tù nhỏ nhưng vẫn còn lo sợ, hoang mang trượ́c nhà tù lớn.
Bằng mọi nỗ lực chị cố gắng tạo dựng lại gia đình nhỏ của mình. Chị kiếm những công việc cho anh như đi giao hàng cho tổ hợp để anh từ từ quen với nếp sống của xã hội mới. Hay đưa đón con đi học để tạo sự gần gũi, thân mật giữa cha con.
Nhưng mọi nỗ lực của chị đều thất bại. Anh như người thất chí - cả ngày lầm lì, không trò chuyện với ai. Ngay cả những đêm vợ chồng gần gũi, chị thường có cảm giác sợ hãi như người đang bị hành hạ. Sau những năm tháng tù đày, cải tạo, anh trở về như một người đã chết từ thể xác lẫn tâm hồn.
Thời may lúc này có tin chính phủ Mỹ như để chuộc ḷại lỗi lầm của mình đã bỏ rơi miền Nam ngày đó, họ thiết lập chương trình định cư ở Mỹ cho những người tù cải tạo và chương trình HO ra đời. Anh như người đang chết sống dậy. Chị cũng vui mừng hy vọng sự " đổi đời" này sẽ giúp gia đình chị trở lại như xưa. Thế là mỗi ngày chị đưa anh it tiền, sau khi đưa các con đi học anh liên lạc với các bạn tù hỏi thăm tin tức và lo thủ tục giấy tờ đi Mỹ.
Cuối cùng cái ngày hân hoan, vui mừng ấy cũng đã tới. Cả gia đình chị bận bịu, rộn ràng chuẩn bị cho chuyến đi với tương lai đầy hứa hẹn. Trước ngày đi một tuần anh thường vắng nhà, bảo phải về bên nhà để lo cho mẹ và các em trong những ngày còn lại.
Đến ngày đi chị vẫn không thấy mặt anh. Nhắn tin anh bảo sẽ gặp tại phi trường.Hôm đi cả nhà chị từ bố mẹ, chi em đều ra phi trường đưa tiễn.Ai cũng mừng cho chị va các cháu từ đây sẽ có cuộc đời sung sướng, hạnh phúc hơn.
Trong bối cảnh chia tay với gia đình, chị lo sợ, dáo dát đưa mắt tìm kiếm anh- anh là đầu tàu dẫn dắt và thay đổi số mệnh của mẹ con chị trong giờ phút quan trọng này. Đúng lúc gia đình chị được gọi vào phòng cách ly mới thấy anh len lỏi giữa đám đông, xuất hiện với chiếc ba lô đeo trên vai. Anh đưa mắt chào tự biệt gia đình chị rồi vội vàng dẫn vợ con vào bên trong.
Khi máy bay bắt đầu cất cánh chị thở phào nhẹ nhỏm, yên tâm. Nhìn sang anh chị thấy nét mặt anh ṃệt mỏi, ánh mắt đăm chiêu xa vắng. Chị khẽ nắm bàn tay chai sạm của anh, cảm giác bồng bềng, lâng lâng như những đám mây đang trôi ngoài cửa sổ. Chị thở nhẹ rồi chìm vào giấc ngủ.
Đi theo diện HO nhưng anh có cô em gái ở Cali nên gia đị̀nh anh chị được định cư tại California. Cô em xin cho anh vào phụ việc ở một siêu thị của người Việt. Chị thì phụ bếp cho nhà hàng Việt Nam. Được ba tháng cuộc sống chưa ̉ổn định thì anh bảo muốn trở về Việt Nam vì thấy cuộc sống ở đây không thích hợp. Biết anh lại mang mặc cảm tự ti chị nghẹn ngào khuyên nhủ:
- Anh không thương mẹ con em sao? Từ từ cuộc sống mình sẽ khá hơn anh à.
Anh cũng xúc động không kém:
- Lúc đầu anh không định đi nữa nhưng nghĩ đưa em và các con qua để cuộc sống có tương lai hơn rồi anh về. Anh vẫn cảm thấy mình là người vô dụng. Anh xin lỗi em.
Một lần nữa c̣hị̣ lại có cảm giác như anh đi tù, bỏ chị bơ vơ với đàn con nơi đất khách quê người.
Một người bạn học cũ ở Virginia, gần Washington DC thương cho hoàn cảnh của chị đã giúp đỡ đưa mấy mẹ con về đây. Đến Thủ Đô vào mùa đông băng giá, chị càng cảm thấy cô đơn hơn. Những hôm lội tuyết từ chỗ share nhà ra trạm xe bus đi làm, chị nghe cái lạnh như cắt vào da thịt. Tuyết rơi trên tóc, trên má và lần đầu tiên trong đời chị ngạc nhiên khám phá ra rằng: sao tuyết có vị mặn? Chị ngậm ngùi thương cảm cho thân phận lạc loài của mình.
Hơn hai năm chị vẫn lặng lẽ đợi chờ. Chị mong anh trở lại để các con chị có cha và một mái ấm gia đình hạnh phúc.. Nhất là tự thâm tâm và đáy lòng, chị biết mình vẫn còn yêu anh tha thiết- tình đầu cũng là tình cuối.
Một hôm chị nhận được thư anh từ Cali. Trong thư anh xin lỗi chị và mong muốn được làm giấy tờ ly hôn.
Thì ra trong những ngày chạy đôn, chạy đáo lo giấy tờ đi Mỹ, anh đã để lại giọt máu của mình nơi quán cà phê bên đường trước Sở Ngoại Vụ.
Chị lặng người đau đớn. Bạn bè khuyên nhủ chị nên khép lại quá khứ đau thương. Vì con, một lần nữa chị không cho phép mình gục ngã. Chị lao vào công việc như điên với nghi lực phi thường. Và với số phận nghiệt ngã giữa cuộc đời, chưa bao giờ chị thấy mình mạnh mẽ như lúc này.
Tuy sống giữa lòng Thủ Đô nước Mỹ, chị không tham gia vào bất cứ hội hè nào, nhất là hội của những người HO- hằ̀ng năm vẫn tổ chức những buổi tượng nịệ̣m, những buổi vinh danh người tù và những người vợ tù HO. Chị vẫn cho mình là một người vợ tù HO lạc loài, không xứng đá́ng xếp vào hàng ngũ ấy.
Thời gian chữa lành mọi vết thương. Các con khôn lớn, lập gia đình. Giờ đây ở tuổi xế chiều, niềm an ủi, hạnh phúc của chị là những đứa con ngoan ngoãn, thành tài rạng rỡ nơi xứ người và những đứa cháu xinh đẹp, kháu khỉnh. Chị có thể nở nụ cười mãn nguyện dù nhìn lại mình- "đời đã xanh rêu".
Suy cho cùng những anh hùng thời xưa cũng như thời nay, có bao giờ qua được "ải mỹ nhân". Và dẫu tin rằng người đàn bà ấy đã đến với anh chỉ vì "tấm vé đi Mỹ", chị vẫn không thể và không bao giờ tha thứ cho anh. Nhưng chị sẽ tha thứ cho chị. Vì dù người chồng lính năm xưa không trở lại, chị vẫn một mình thay chồng bôn ba nuôi dạy cho các con thành người.
Vẫn nguyên một tấc lòng son
Cái cò lặn lội nuôi con thay chồng.
Sau 42 năm lạc loài, bây giờ chị̉ có thể ngẩng cao đầu, tự hào là người vợ lính Việt Nam Cộng Hoà năm xưa. Từ đây mỗi năm đến ngày 30-4 chị có thể đứng dưới đài tưởng niệm với lá cờ Tổ Quốc thân yêu, để tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh, bỏ mình cho tự do, dân tộc.
Và cũng để tưởng niệm hình bóng anh ngày nào.
Hải Âu
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-02-2021
|
#214
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: CHO CON ĐI VƯỢT BIỂN
Cả nhà đang vui mừng anh Thi tôi thi đậu vào đại học Tài Chính chưa được bao lâu thì anh phường đội ghé nhà đưa giấy báo tin anh Thi đã… trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.
Mẹ tôi “quen” với anh phường đội, mời anh vào nhà thì thầm to nhỏ xin anh hủy tấm giấy gọi này như lần trước anh đã từng làm và hậu tạ anh, nhưng lần này anh phường đội nói không thể vì chỉ tiêu quận đưa ra rất cao phải gom đủ số.
Cả nhà cùng lo âu, chiến tranh biên giới Việt Nam và Campuchia đang diễn ra từng ngày, những đợt nghĩa vụ quân sự nối tiếp nhau lên đường.
Cầm tờ giấy báo nghĩa vụ trong tay mẹ tôi nước mắt rưng rưng nhưng cả quyết:
– Ði nghĩa vụ là… chết. Không, nhất định là không.
Mẹ ra phường… khiếu nại với hai tờ giấy, một giấy báo đậu đại học và một giấy báo trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, xin cho con được đi học đại học vì giấy báo này đến trước, thì ông chủ tịch phường đã nhiệt liệt chúc mừng con trai bà được trúng tuyển cả hai thứ.
Nhưng nghĩa vụ quân sự thiêng liêng cao cả hơn anh Thi phải thi hành trước. Ông hứa hẹn khi nào hoàn thành nghĩa vụ anh Thi sẽ vào học đại học.
Mẹ tôi cay đắng nghĩ thầm con tôi đi bộ đội có khi chết mất xác ở Campuchia hay nếu sống sót trở về, lời hứa hôm nay của ông cũng theo gió bay mà thôi.
Thế là anh Thi tôi phải dẹp mộng bút nghiên lên đường vào bộ đội tại quân trường Quang Trung Hốc Môn.
Mẹ tôi chưa chịu thua, mẹ an ủi con trai:
– Con cứ vào trại Quang Trung, mẹ sẽ tìm đường cho con đi vượt biển tìm cuộc sống tự do và yên chí ăn học đàng hoàng.
Tôi ngây thơ cũng đòi đi vượt biển cùng với anh thì mẹ mắng:
– Ði vượt biển vui lắm sao mà đòi đi chung? Nhà mình không có nhiều tiền, mẹ sẽ dốc hết tài sản lo cho anh con. Mày là con gái… không quan trọng.
Sau 1975 gia đình tôi mất tất cả tiền bạc gởi trong Ngân hàng Việt Nam Thương Tín và sau hai lần đổi tiền tài sản vốn liếng càng teo tóp lại.
Bố tôi là công chức thì mất việc. May nhà mặt tiền nên mẹ mở cửa hàng tạp hóa nho nhỏ sống tằn tiện qua ngày với hộ khẩu 4 đầu người gồm cha mẹ và anh em tôi.
Người chị Cả của tôi đã lập gia đình ở riêng.
Anh Thi vào trại Quang Trung được hai tháng thì mẹ đã có mối đi vượt biển. Một ngày cuối tuần anh được phép về thăm nhà. Anh đã không trở về trại mà đáp xe đò đến Cần Thơ bắt đầu cuộc hành trình tìm đường vượt biển.
Những ngày đầu ở Cần Thơ anh Thi cùng chủ tàu và vài người khác sống trên ghe giả làm người đi buôn than củi. Cũng như họ, anh Thi mặc bộ quần áo bà ba đen, đầu đội chiếc mũ tai bèo, bèo nhèo cũ rích.
Bọn họ vừa đi buôn vừa… thực tập lái ghe, lúc từ từ trong lòng sông hẹp hay lúc tốc độ nhanh khi ra sông Cái cho thật thuần thục.
Từ Cần Thơ đi Sóc Trăng, Bạc Liêu và xuống tuốt luốt Cà Mau, qua lại mấy đồn kiểm soát gần trạm biên phòng cho chúng quen ghe, quen mặt, chờ thời cơ sẽ xuất phát lên tàu lớn ra biển luôn.
Người đội trưởng của anh Thi ở Quang Trung kết hợp cùng công an phường mấy lần đến tận nhà truy tìm anh Thi, kết tội anh đào ngũ, nếu gia đình bao che sẽ bị tội nặng, nhưng cha mẹ tôi vẫn một mực kêu oan, không biết con trai bỏ đi đâu.
Ở nhà đêm nào gia đình tôi cũng coi tin thời tiết trên ti vi, thấy biển êm thì mừng thầm, thấy “biển động đến động mạnh” hay “gió giật mạnh cấp 6 cấp 7” trở lên là hoang mang lo lắng. Gió cấp này ngư phủ cũng không dám ra khơi đánh cá.
Gia đình tôi sợ chính quyền và sợ cả thời tiết nắng mưa. Chỉ biết cầu nguyện cho anh Thi được mọi sự bình yên.
Thế mà một đêm khuya nghe tiếng gõ cửa, bố tôi ra mở và kinh hãi thấy một người mặc áo khoác dài tới chân đứng lù lù trước cửa. Người đó vội thì thầm lên tiếng ngay:
– Bố ơi con là Thi đây.
Chuyến đi đã thất bại ngay lúc ra quân, người từ các ghe nhỏ chưa kịp lên ghe lớn thì bị công an ập tới, một số người bị bắt, một số người chạy thoát.
Anh Thi phải chi tiền nhờ người dân địa phương giúp đỡ mới thoát ra khỏi vùng sông nước chằng chịt Cần Thơ trở về Sài Gòn, anh đợi nửa đêm mới dám về nhà mình vì sợ hàng xóm phát hiện.
Cả nhà cùng bàng hoàng lo sợ. Nhốt anh ở trong nhà một ngày sau cha mẹ tôi đã gởi anh xuống Bà Chiểu ở nhờ nhà bác ruột tôi vì nếu ở ngay nhà mình thì sớm muộn gì hàng xóm cũng biết, hàng xóm biết thì chính quyền sẽ biết.
Anh về nhà nửa đêm và ra đi cũng nửa đêm như tên tội phạm.
Mẹ tôi mang đến nhà bác tiêu chuẩn 9 ký gạo, một ký cá khô và một ký lạp xưởng để khỏi phiền bác thời buổi bao cấp gạo thịt khó khăn.
Cha mẹ tôi sốt ruột lại đi tìm nhiều mối vượt biên khác, nếu chỗ này không xong thì còn chỗ kia.
Hai tuần lễ sau bỗng bác trai đạp xe xuống nhà tôi, mang theo gạo, cá khô, lạp xưởng vẫn còn y nguyên và ngại ngần nói với mẹ tôi:
– Chúng tôi mang trả lại chú thím phần thực phẩm này, chưa dùng đến…
Mẹ tôi ngạc nhiên:
– Chẳng lẽ anh chị nuôi không cháu Thi à, nó còn ở nhờ nhà bác mà?
– Thím thông cảm cho, con cháu thương thì thương nhưng… bà nhà tôi lo lắm, không dám chứa chấp cháu trong nhà sợ mang họa, nó vừa tội đào ngũ vừa tội phản động vượt biên.
Hai tuần cháu ở, chúng tôi phải che giấu, không dám khai báo với tổ dân phố có người tạm trú, nuôi cháu thế là đủ rồi, chú thím làm ơn… mang cháu về.
Ông bác ra về rồi mẹ tôi ngồi thẫn thờ chẳng biết tính sao thì bố tôi đi đâu cũng vừa về đến, không kịp nhìn thấy những món hàng thực phẩm còn để trên bàn, bố tôi vội vàng vào đề ngay:
– Có chuyến đi ngay đêm mai, tối nay tôi phải đến bác đón thằng Thi về và mang đến điểm hẹn. Chuyến của Tư Lùn mà bà từng tin cậy và mong đợi đấy…
Mẹ tôi mừng rỡ:
– Ðám này tổ chức chuyến nào là thành công chuyến ấy. Ðợi chuyến của họ lâu mà chắc. Nhà mình gặp vận hên rồi.
Mẹ tôi chỉ túi gạo:
– Bác trai vừa đến và không chịu chứa thằng Thi kìa… chuyến đi thật đúng lúc. Chắc là trời… giúp.
Tối hôm đó bố tôi đến nhà bác đón anh Thi về và mang anh đến điểm hẹn. Hôm sau anh đã có mặt ở Bến Tre. Chuyến tàu sẽ xuất phát ở cửa biển Bình Ðại.
Một tuần lễ trôi qua, tin từ nhóm tổ chức Tư Lùn cho biết tàu đã ra khơi rồi.
Cả nhà cùng vui mừng, tàu ra khơi sẽ ra đến hải phận quốc tế thì không sợ bị bắt nữa, số phận con tàu chỉ trông vào biển cả và thời tiết.
Chúng tôi lại coi ti vi phần tin thời tiết và cầu nguyện cho chuyến tàu thuận buồm xuôi gió đến bến bờ tự do.
Một tháng trôi qua cả nhà đang khấp khởi mừng thầm bỗng có người phụ nữ lạ tìm đến nhà, hỏi đúng tên và địa chỉ nhà tôi, bà đi thăm nuôi con bị tù ở Long Ðất Vũng Tàu, thằng con nhờ bà chuyển lá thư này cho người bạn cùng tù với nó tên là Thi.
Trời ơi, thì ra chuyến tàu vừa ra khơi đã bị công an đuổi theo bắt lại trọn gói, cả đám thuyền nhân vào trại tù ở Long Ðất.
Mẹ tôi suy sụp, vì thương con, vì số vàng chắt chiu để dành cho con đi vượt biển hai chuyến đã cạn túi rồi, tương lai đen tối đang chờ đón anh tôi ở phía trước.
Bố tôi là điểm tựa chính của gia đình, bố nén thương đau, vẫn bề ngoài điềm nhiên, mỗi khi có hàng xóm nào hỏi thăm về Thi thì bố vẫn giữ vững lập trường đáp nó bỏ đi từ dạo đó nhà vẫn chưa có tin tức gì.
Bố tôi đi Long Ðất thăm nuôi anh Thi, khi về ông còn mua một quả mít to bán ở dọc đường, mít Vũng Tàu nổi tiếng múi dày thơm ngon.
Mẹ tôi chán chường:
– Ông còn tâm trí thưởng thức mít được hả? Ông ăn hết đi, tôi quyết chí…không ăn.
Hàng xóm có kẻ tò mò hỏi tôi:
– Bố cháu đi đâu mà mua mít về, người lại nắng gió ngăm ngăm ra…
– Bố cháu đi thăm họ hàng ở Vũng Tàu.
Bà hàng xóm lửng lơ:
– Không phải đi thăm thằng Thi hả…
Thế là lần sau bố tôi lặng lẽ đi thăm anh Thi và nhất là không mua mít dù bố tôi khen rẻ và ngon, sợ hàng xóm biết, không lẽ lại nói đi thăm họ hàng ở Vũng Tàu lần nữa?
Ở tù hơn một năm thì anh Thi được thả ra, lần này đành phải mang anh Thi về nhà chị Cả tôi, dù gia đình chị ở xóm bên, cách xóm tôi không xa.
Nhà chị có lầu, cho anh lên tầng trên ở một phòng. Ðứa con chị còn bé mới lên ba chẳng biết gì, không cho nó lên tầng trên là được.
Hy vọng công an khu vực không nghi ngờ và xét hỏi như thời gian đầu anh Thi mới đào ngũ nữa.
Cha mẹ tôi không biết cách nào xoay ra tiền để lo cho anh Thi tiếp tục đi vượt biên, anh không thể trốn chui trốn nhủi mãi trong một góc nhà ngày đợi hai bữa cơm như một thằng tù giam.
Cha mẹ tôi có lúc tuyệt vọng bàn nhau hay là mang anh ra phường tự thú đã trở về nhà sau một thời gian… đi hoang, để khỏi phiền lụy đến gia đình, để mở ra cho anh một con đường sống trên cõi đời, dù sống với một xã hội mà mình từng toan tính bỏ chạy, muốn lìa xa nó.
Tôi 17 tuổi, bắt đầu thi vào đại học, đơn xin vào đoàn trường của tôi mang về phường bị uỷ ban phường nơi tôi cư trú nhận xét những lời tệ hại “có anh phản quốc đào ngũ…” làm tôi khóc quá chừng, không vì tiếc mình chưa được là đoàn viên của trường sẽ ảnh hưởng đến kỳ thi này mà vì chạnh lòng thương anh Thi tôi.
Người ta sỉ nhục anh như một tội phạm nhưng anh vẫn là ngôi sao sáng của gia đình và của tôi. Các môn toán, lý hóa tôi đều khá là nhờ có anh kèm.
Vậy mà tôi thi rớt đại học, chỉ được chuyển xuống nguyện vọng hai là trường trung cấp sư phạm. Tôi không hề thích nguyện vọng này, chỉ ghi cho có lệ mà thôi vì tin tưởng khả năng mình sẽ vào đại học.
Một hôm người bạn tù Long Ðất rất thân anh Thi đến nhà tôi tìm anh.(người mà trước kia mẹ anh đã đến nhà đưa thư anh Thi ở trong tù) Tôi kín đáo dẫn anh đến nhà chị tôi. Hai người bạn lên tầng lầu nói chuyện rất lâu.
Người bạn tù này cùng vài người bạn tù khác cũng ở Long Ðất đã rủ nhau tổ chức vượt biển, người có khả năng lái tàu, người là hoa tiêu.
Họ bàn nhau mua chiếc ghe nhỏ, dài chừng 8-9 mét, động cơ máy cũng…nhỏ, chừng 1 block. Chi phí cây nhà lá vườn kiểu “con nhà nghèo” chừng 5 – 6 cây vàng là đủ. Nếu anh Thi muốn tham gia thì góp 1 cây vàng để sắm đồ, đưa vàng trước đi sau.
Cha mẹ tôi nghe đều run sợ hơn là mừng, ghe đi biển trung bình dài 15 mét, ghe nhỏ dài 8-9 mét này đi ra biển thì làm sao chịu nổi sóng gió?, lại chỉ có vài mống trên ghe lấy đâu ra người tài giỏi để giúp đỡ lẫn nhau?
Hơn nữa nhà đã hết tiền, một cây vàng bây giờ cũng là gia tài lớn, đưa vàng trước, ghe chưa chuẩn bị xong bị bắt thì coi như mất toi cây vàng.
Anh Thi chỉ biết khích lệ tinh thần bố mẹ:
– Các bạn ấy đều cùng tuổi trẻ, cảnh ngộ ra tù lông bông, con đường sống và tìm tương lai duy nhất là đi vượt biển nên ai cũng cố gắng hết sức mà tìm vận may cho đời mình.
Mẹ tôi đau trĩu lòng cũng đành gượng cười:
– Ðể bố mẹ tính, chưa quá tam ba bận mà.
Bố tôi tán thành:
– Bước đường cùng rồi… con cứ đi theo các bạn.
Tôi lại đòi đi theo:
– Anh Thi cho em đi theo anh với. Em không được vào đại học, chán lắm.
– Nếu cha mẹ đồng ý thì em đi cùng không mất tiền đâu, ghe còn rộng chỗ mà.
Mẹ tôi gạt phăng:
– Thân phận anh Thi đang dầu sôi lửa bỏng. Hai đứa đi một lúc nếu …
Mẹ tôi tự bịt miệng lại, kiêng cữ không dám nói tiếp nếu… sợ xui xẻo cho chuyến đi sắp tới.
Bố mẹ đã vay mượn họ hàng mỗi người một ít cho đủ một cây vàng để chơi ván bài chót, mặc cho số phận muốn ra sao thì ra. Mẹ cũng không quên đưa riêng anh Thi chiếc nhẫn mỏng 5 phân vàng để anh… có tiền đánh điện tín về nhà báo tin vui.
Anh Thi lần thứ ba rời khỏi nhà trên đường đi tìm tự do. Lần này anh đi bằng cửa biển Gành Hào Bạc Liêu…
Bố tôi đưa anh đến Bạc Liêu và ở lại nhà người thân của người bạn cùng chuyến với anh để nghe ngóng tin tức, mấy ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ bé ra khơi không nghe động tĩnh gì thì bố yên tâm ra về.
Cả nhà tôi lại rơi vào vòng lốc xoáy của thấp thỏm chờ đợi và nghe ngóng thời tiết. Hỡi những cơn gió đừng giật mạnh. Hỡi biển đừng động mạnh cho chiếc ghe nhỏ bé kia ra khơi và đến nơi đến chốn nhé.
Mỗi một ngày trôi qua là một ngày căng thẳng với gia đình tôi, chân như đạp trên chông gai, người như ngồi trên chảo lửa, tim gan ruột phổi như đảo lộn tùng phèo. Họ đang lênh đênh trên biển hay đang ra sao có trời mà biết??
Ðược 3 tuần là mẹ tôi bắt đầu chờ mong… tờ điện tín, ngày nào mẹ cũng mong giờ người đưa thư qua nhà, anh đưa thư trẻ tuổi chạy xe đạp vèo qua cửa thì mẹ tôi thở dài thất vọng, anh ngừng lại đưa thư, nhưng lại là thư từ miền Bắc gởi sang mẹ tôi càng chán thêm, chìa tay nhận lá thư mà chẳng buồn nhìn mặt anh đưa thư, làm như anh cũng… có tội khi không có một tin tức gì của anh Thi tôi.
Mẹ tôi đau xót đếm từng ngày và thở than:
– Ðược một tháng rồi mà chẳng có tin. Con ơi là con ơi!
Thấy mẹ buồn tôi cũng buồn theo, tôi bi quan như mẹ, tưởng tượng ra bao cảnh hãi hùng. ghe… lạc đảo hoang, ghe đang… hư máy hay… hết xăng dầu lênh đênh trên biển và khủng khiếp nhất là ghe… đã chìm vào biển khơi?!
Có hôm mẹ tôi nằm ác mộng thấy anh Thi hiện về đứng ở đầu giường, anh mặc chiếc áo kẻ ca rô màu xanh hôm anh ra đi. Mẹ tôi kêu rú lên:
– Thi ơi, con đâu rồi? con đâu rồi?
Nghe mẹ kể tôi và mẹ lại òa khóc tiếp cứ làm như vừa được tin anh Thi tử nạn ngoài khơi.
Bố tôi phải gắt:
– Hai mẹ con bà làm gì mà sầu bi thế. Từ Gành Hào đến Thái Lan là gần nhất, nhưng biết đâu ghe nó lạc đường tới Mã Lai nên chưa có tin về??
Mẹ tôi giãy nảy lên:
– Ống còn muốn nó đi lạc đến Mã Lai à, sao ông không cho nó đi lạc đến Philippines, Hồng Kông luôn đi cho tôi đợi chờ thêm vài tháng nữa, chết dần chết mòn thêm nữa.
– Tôi chỉ… thí dụ thế thôi để mẹ con bà yên tâm chờ đợi.
Sang tuần lễ thứ năm, tuần lễ thứ sáu thì mẹ tôi đã kiệt sức trông thấy, gầy hốc hác, phờ phạc như một nhánh cây khô, mẹ như một người không có hồn. Chị tôi phải đưa mẹ đến tư gia của một y tá để truyền nước biển.
Ðôi lúc tôi bắt gặp vẻ buồn rầu thất vọng trên gương mặt người cha luôn tỏ ra cứng cỏi với vợ con. Bố tôi cũng lo buồn lắm đấy nào dám nói ra.
Cả nhà tôi âm thầm cùng gánh chịu một niềm đau.
Anh đưa thư trẻ vẫn nhởn nhơ đi qua nhà mỗi ngày, nhưng trưa nay anh quẹo thẳng vào sân nhà tôi và hớn hở:
– Mời nhà ra nhận thư nè…
Tôi nhanh chân từ trong nhà phóng bay ra ngoài sân, thấy tôi anh đưa thư mới khoan thai chậm rãi móc trong cái túi vải đeo ngang vai đầy ắp văn thư và lôi ra một mảnh giấy gì đó:
– Ðiện tín từ Thái Lan của Nguyễn Quang Thi nè.
Chữ “nè” của anh đưa thư vừa chảnh chọe vừa dễ thương làm sao.
Tôi mừng vui cuống quýt, líu ríu nhận tờ điện tín, mẹ tôi đang mệt mỏi nằm dưỡng sức trong nhà cũng xồng xộc đi ra, mặt mẹ tươi rói như hoa mới nở. Phép lạ nào mà nhiệm màu đến thế với người đàn bà hôm qua còn nằm thiêm thiếp để truyền nước biển?
Giọng mẹ rổn rảng như hồi chuông đổ hàng xóm bên cạnh cũng có thể nghe thấy:
– Có điện tín Thái Lan à? Cám ơn cháu nhé…
Mẹ móc hết tiền lẻ trong túi áo đưa tặng anh đưa thư mà không cần đếm.
Quả nhiên, bà hàng xóm bên cạnh bấy lâu hay tò mò thắc mắc đã bước sang, chẳng biết bà vui cùng hay là ganh tị:
– Có tin thằng Thi đến đảo rồi hả, thích nhỉ? Tôi đoán đúng mà, nó đi vượt biển chứ còn đi đâu, giấu ai chứ chẳng qua mắt được tôi…
Cả nhà tôi đã hồi sinh.
Vài ngày sau nhận thêm lá thư của anh Thi. Lá thư viết trước tờ điện tín dù nó đến sau. Anh kể chiếc ghe nhỏ bé chở 12 người đã may mắn trong biển êm gió lặng sau 7 ngày thì đến Thái Lan, 5 phân vàng mẹ đưa anh đã tặng cho người dẫn đường chiếc ghe nhỏ của anh khi ra đến cửa biển nên anh không có tiền đánh điện tín về nhà ngay. Nhưng anh tin là chờ mong càng dài thì niềm vui mừng càng tràn đầy.
Trời ơi, anh Thi đâu biết là anh để cho chờ mong khủng khiếp này dài thêm chút nữa là cả nhà càng thêm sống dở chết dở…
Mẹ tôi mỉm cười hạnh phúc trách yêu thằng con trai đang bình yên nơi xa:
– Có mấy phân vàng mang theo phòng thân mà cũng cho người ta…
– Biết đâu nhờ anh rộng lượng tử tế nên trời thương.
Mẹ tôi kể công:
– Nhờ mẹ đi coi bói và đi chùa cầu nguyện nữa chứ.
Bố tôi phản đối:
– Chuyến nào của nó bà chẳng đi coi bói chẳng đi chùa cầu nguyện, vậy mà hai chuyến trước thất bại còn vào tù hơn năm trời.
Mẹ tôi bỗng quay ra nhìn tôi và tiếc rẻ:
– Nhưng chuyến này Trời Phật thương, biết thế mẹ cho con đi cùng với anh Thi, chẳng tốn thêm tiền lại được thêm một đứa.
Bố tôi hù dọa:
– Nhưng nếu nó đi thì sẽ thành 13 người là con số không may đấy.
Tôi nũng nịu với bố mẹ:
– Thôi, mẹ đã bảo con gái… không quan trọng mà. Anh Thi đi được là cả nhà mình trút được gánh nặng sầu lo, con cũng đang sung sướng hạnh phúc lắm đây….
Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2021
|
#215
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Đồng Tiền Mỹ
Ngày đầu tiên được nhận vào làm việc trong công ty, người "manager" dẫn tôi đến gặp Joe, một người Mỹ trung niên, đang sử dụng một trong những chiếc máy được thiết kế tại "department" này. Sau khi giới thiệu chúng tôi với nhau, người "manager" giao cho Joe trách nhiệm huấn luyện công việc cho tôi.
Khi người "manager" đi rồi, tôi đưa mắt nhìn khắp một lượt những chiếc máy có vẻ xa lạ đối với mình, được vận hành hoàn toàn bởi những chiếc "computer" gắn liền với chúng. Từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi có biết "computer" là cái gì, thế mà bây giờ coi mòi phải biết sử dụng nó thì mới làm cho máy chạy được. Như hiểu được nỗi băn khoăn của tôi, Joe vỗ vai tôi như ngầm nói với tôi "Don't worry". Liền đó, bằng một động tác nhanh nhẹn, Joe đưa tay móc chiếc bóp ở túi quần sau, mở bóp lấy ra tờ 1 đô la. Anh thả đồng tiền xuống sàn nhà rồi cúi xuống nhặt lên, miệng tươi cười bảo tôi đừng có lo lắng gì cả, công việc ở đây dễ dàng như "pick the money from the floor".
Câu nói đùa của Joe làm tôi nghĩ đến cái ý nghĩ chung của nhiều người ở Việt Nam về đồng tiền Mỹ. Người ta cứ nghĩ kiếm tiền ở Mỹ giống như gom lá rụng về mùa thu. Do cái tâm lý đó mà nhiều người đã có cái nhìn sai lệch về cuộc sống, về sinh hoạt ở Mỹ và đôi khi ngay cả ûvề lòng tốt của người Việt ở Mỹ đối với thân nhân và bạn hữu của họ.
Khi gia đình tôi đến Mỹ chưa đầy 2 năm tôi đã nhận được những lá thư từ Việt Nam gửi sang hỏi mượn tiền. Có người khiêm tốn chỉ xin mượn 500 đô la, có người muốn mượn vài ngàn, có người hỏi mượn đến 5,000 đô la. Đọc xong những lá thư đó, tôi chỉ cười. Qủy thần ơi tiền ở đâu ra mà nhiều dữ vậy. Dĩ nhiên là tôi không thể thỏa mãn lời yêu cầu của chủ nhân những lá thư đó. Cho dù có khả năng thỏa mãn được cho vài người xin mượn số tiền nhỏ, tôi cũng không dám. Cho người này mượn thì còn người khác, làm sao mà thỏa mãn hết cho được. Không khéo còn gây chuyện bất bình chứ chẳng chơi.
Tôi đã từng nghe những câu chuyện dở khóc dở cười do từ đồng tiền Mỹ mà nhiều người Việt ở Mỹ đã gặp phải. Nghe nói có người từ Mỹ đem tiền, vàng về cho thân nhân ở Việt Nam đã bị quăng trả lại vì bị chê ít. Có những gia đình từ Việt Nam viết thư cho thân nhân ở Mỹ kể lể đang gặp hoàn cảnh ngặt nghèo, đến khi người nhà về Việt Nam mới vỡ lẽ ra là tình trạng hoàn toàn không giống với những gì đã được mô tả. Lại có người gửi "tối hậu thư" cho thân nhân yêu cầu khẩn cấp gửi tiền về trong vòng hai tuần lễ để trả nợ cho ngân hàng, nếu không nhà cửa sẽ bị tịch thu và người trong gia đình sẽ bị trục xuất. Nhưng rồi sau thời hạn đo,ù tiền chưa kịp gửi mà vẫn chẳng có chết thằng Tây nào.
Nói chi đâu xa, chính người bạn của tôi cũng đã từng "khốn đốn" vì đồng tiền Mỹ. Anh bạn của tôi sống ở khác tiểu bang nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gọi điện thoại thăm nhau. Lần đó anh gọi cho tôi và sau khi nhận ra tiếng nói của tôi, từ đầu dây phía bên kia, anh bạn tôi cười như nắc nẻ. Tôi nghĩ có lẽ anh đang cười nghiêng ngả, cười đến chảy nước mắt không chừng. Cười đã một hồi anh mới giải thích rằng anh cười vì chuyện đời oái oăm, rằng "làm ơn mắc oán". Tôi hỏi anh câu chuyện như thế nào. Anh nói vừa nhận được tiền từ Việt Nam gửi qua. Trời đất ơi! Hồi nào đến giờ tôi chỉ nghe nói người ở Mỹ gửi tiền cho thân nhân hay bạn bè ở Việt Nam chứ có nghe ai nói người ở Việt Nam gửi tiền cho người ở Mỹ bao giờ.
-Vậy là "bảnh" qúa rồi còn muốn gì nữa" - tôi chọc anh và hối thúc anh nói rõ ràng hơn.
Anh bạn tôi tằng hắng cho thông cổ rồi mới từ từ kể đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe. Anh nói anh về thăm Việt Nam và mới trở lại Mỹ được vài tuần lễ. Trước khi lên đường anh đã chuẩn bị sẵn một số tiền làm qùa cho họ hàng. Anh còn cẩn thận lên một danh sách ghi tên những người anh dự định sẽ cho qùa và số tiền làm qùa cho mỗi người. Đại khái anh phân loại như sau: anh em ruột mỗi người 500 đô la, chú bác ruột 300 , anh em họ 100, cháu ruột 50 và cháu họ mỗi người 20 đô la. Khi đến thăm người nào mà không gặp thì anh gửi tiền nhờ chuyển lại. Trở về Mỹ anh còn đang mãn nguyện vì đã làm được công việc giúp đỡ họ hàng đôi chút thì đùng một cái, anh nhận được thư của một người cháu ruột cùng với tờ 50 đô la. Lời lẽ trong thư chỉ ngắn gọn "Ở Mỹ về mà cho 50 đồng thì thà đừng cho". Thì ra là thế. Chê ít chứ gì nữa.
Nghe xong câu chuyện tôi không khỏi có chút bất bình về thái độ của người cháu anh. Nếu người bạn "khí khái" kia hiểu được đồng đô la có gía trị như thế nào ngay đối với người Mỹ, có lẽ anh ta sẽ chẳng nổi giận đến nỗi đem 50 đô la ra bưu điện gửi trả lại người đã có nhã ý tặng mình. Người ta sẽ không dám coi thường mấy chục đô la khi thấy có những người Mỹ đến chợ với một xấp "coupon" để mua những món hàng được giảm gía từ vài chục xu đến vài đồng. Hoặc nhìn thấy người mua hàng sẵn sàng chờ đợi để lấy năm, bảy xu tiền thối lại.
Tôi nhớ có lần tôi bỏ một đô la vào chiếc "vending machine" để mua một chai nước ngọt. Vì máy bị "malfunction" nên nó đã "nuốt" tiền của tôi mà không chịu "nhả" ra chai nước ngọt. Hơi bực mình, tôi đi qua chiếc máy khác, lại bỏ tiền vào và lần này thì lấy được chai nước . Vừa lúc tôi quay gót bước đi thì một người đàn bà Mỹ cũng có mặt lúc đó bảo tôi "fill out" cái "refund request" có sẵn gần bên chiếc máy để lấy lại tiền. Tôi thấy hơi mất công nên lắc đầu và nói nếu bà muốn thì bà có thể điền tên của bà và lấy tiền đó. Nói xong tôi thấy mình lỡ lời nhưng bà Mỹ này không có vẻ gì tức giận, bà hỏi lại tôi rất tự nhiên:
- Are you sure"
- Yes I am - Tôi trả lời. Tôi thấy bà ta nhanh nhẹn điền tên vào cái "form" để lấy lại tiền mà cái máy đã "ăn quịt" của tôi.
Tôi biết có nhiều người Mỹ làm được bao nhiêu tiền tiêu hết đến đo,ù giống như kiểu "tiền lính tính liền", không có dư được đến mấy chục đồng. Lâu lâu có chuyện trục trặc, lương bị trễ một ngày là họ la lối om sòm vì không có tiền chi dùng cho ngày hôm đó. Có những khoản tiêu họ phải chờ đợi cho đến sau ngày được trả lại tiền thuế. Vì vậy mà không có gì khó hiểu khi thấy có những người Mỹ làm việc cả đời vẫn không mua nổi một chiếc xe để di chuyển, đi đâu cũng phải dùng xe bus.
Kiếm tiền ở Mỹ qủa là không dễ như lượm lá rơi nhưng cũng không khó khăn đối với những người chịu thương chịu khó, cần cù làm việc. Nhiều gia đình Việt Nam đến Mỹ chỉ 4 hay 5 năm đã mua được xe cộ, nhà cửa. Nhưng để được như vậy họ phải làm việc gấp rưỡi hay gấp đôi người khác. Nhiều người làm 2 "job". Vừa làm xong "job" này đã lật đật chạy đến nơi khác cho kịp làm "job" thứ hai. Có người chỉ ngủ vài giờ mỗi đêm vì thời gian làm việc đã chiếm gần hết ngày giờ của họ. Nhiều người nhận làm "overtime" bất cứ khi nào được yêu cầu. Làm việc xong về đến nhà thân thể rã rời, chỉ kịp ăn uống vội vã rồi còn đi ngủ để chuẩn bị "cày" vào ngày hôm sau. Cứ như vậy ngày này qua ngày khác đến nỗi không còn thời gian liên lạc với người thân hoặc bạn bè ở Việt Nam để rồi đôi khi bị trách móc là vô tình.
Nhờ cần cù làm việc, nhiều người Việt đến Mỹ với hai bàn tay trắng nay đã làm nên cơ nghiệp, thành công trong nhiều lãnh vực. Tiền kiếm được họ dùng để lo cho gia đình nhưng cũng không quên gửi về Việt Nam giúp đỡ người thân hay bạn bè, các cơ sở tôn giáo, cơ sở từ thiện chăm sóc cho trẻ mồ côi, người phong cùi và những người tật nguyền khác. Trong những năm qua, số tiền do người Việt ở Mỹ gửi về giúp nạn nhân thiên tai , bão lụt tại Việt Nam không phải là nhỏ. Nghe nói hàng năm người Việt ở Mỹ đã gửi về nước cả tỷ Mỹ kim, một khỏan ngoại tệ đáng kể đối với một nước nghèo như Việt Nam. Cũng có người nhẹ dạ, sau khi kiếm được nhiều đô la tại My,õ đem về Việt Nam làm ăn với hy vọng hốt bạc, nhưng đau đớn thay, không những đã bị trắng tay mà còn bị cáo buộc phạm pháp và bị truy tố nữa. Luật của "đỉnh cao trí tuệ" mà, muốn cáo buộc ai mà chẳng được.
“Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây", người Việt không bao giờ quên ơn đất nước Hoa Kỳõ đã cưu mang họ, đã cho họ cơ hội để phát triển. Để trả ơn đó, người Việt đã nỗ lực làm việc, góp phần vào sự thịnh vượng của đất nước. Trong qúa khứ cũng như hiện nay, người Việt đã tham gia, đóng góp không ít vào các việc công ích và từ thiện, bác aí trên đất nước này.
Sau thảm họa hôm 11-9 vừa qua, không như đám sinh viên vô lương tâm của trường Đại học Tổng hợp Hà nội đã tỏ lộ sự vui mừng trước cảnh chết chóc, đau thương của những nạn nhân vô tội. Người Việt ở Mỹ ai nấy đều căm phẫn đối với hành động điên rồ của bọn khủng bố, thông cảm và chia sẻ nỗi đau xót chung của nước Mỹ và đóng góp tiền bạc vào các qũy cứu trợ để giúp đỡ gia đình nạn nhân. Theo bản tin đăng trên Việt Báo On Line ngày 17-9-2001, ông Trần Đình Trường một cư dân ở New York và là chủ nhân hai khách sạn Hotel Lafayette và Hotel Carter đã hiến tặng cho hội Hồng Thập Tự 2 triệu đô la để giúp đỡ nạn nhân và gia đình. Cũng theo bản tin này, bà Nancy Blaschak giám đốc điều hành địa phương đã phát biểu rằng số tiền hiến tặng của ông Trường là khoản tiền lớn nhất từ một cá nhân mà cơ quan của bà đã nhận được. Bà nói "Chúng tôi tràn ngập xúc động. Bạn có thể nói gì được. Gia đình này thực sự biết ơn Hoa Kỳ. Chúng tôi không thể cảm ơn đủ ông ta về khoản hiến tặng lớn như thế".
Tại một khách sạn ở thành phố Burlington, Vermont người ta cũng nghe nói đến một phụ nữ Việt Nam có thân hình nhỏ thó nhưng tấm lòng thì quảng đại, bà Bản Ngô. Dù trong hoàn cảnh mẹ góa con côi, bà Bản đã hiến tặng 900 đô la cho qũy cứu trợ tại khách sạn . Số tiền này nhiều hơn hai lần tiền quyên góp được từ các nhân viên trong khách sạn. Đây là những tiền "tip" mà bà đã nhận được của khách đến mướn phòng và bà đã bỏ ống, dành dụm từ lâu với ý định sẽ dùng tiền đó vào việc từ thiện. Nay nước Mỹ gặp nạn, bà đã trút ra hết cho việc cứu trơ.
Theo một bản tin khác trên Việt Báo On Line ngày 18-9-2001, Trung Tâm Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo Nam California cũng vừa hiến tặng 20,000 đô la để giúp đỡ gia đình các nhân viên cứu hỏa đã hy sinh vì muốn cứu người khác. Một bản tin khác của Việt Báo On Line ngày 19-9-2001 nói rằng bà Mai Công, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Orange County cho biết đã mở cuộc lạc quyên gây qũy cứu trợ gia đình các nạn nhân trong vụ tấn công của bọn khủng bố vừa qua.
Chắc chắn rằng ngoài ông Trần Đình Trường, bà Bản Ngô, Trung Tâm Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo Nam California, Hội Cộng Đồng Người Việt Orange County còn có rất nhiều người Việt khác cũng đang mở rộng tấm lòng và các hội đoàn khác cũng đang hoạt động lạc quyên để làm vơi đi những nỗi đớn đau của gia đình các nạn nhân trong biến cố khủng khiếp này. "Dẫu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người". Đồng tiền đáng qúy thật nhưng nó còn đáng qúy hơn nếu ta biết sử dụng nó vào đúng nơi , đúng lúc.
Hải Triều
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2021
|
#216
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Mẹ Tôi
Từ New York, tôi bay về San Jose thăm mẹ. Trong bữa cơm tối, lòng tôi nặng trĩu lo nghĩ nên im lặng không gợi chuyện như thường lệ. Đã mấy tháng trời, ngày nào cũng bão tuyết, hàng họ ế ẩm, tiệm vắng không một bóng người. Khủng hoảng kinh tế lan tràn làm nhiều khách của tôi dè dặt, không dám ăn xài. Tôi về nhà hy vọng sẽ khuây khoả, để quên hết những phiền phức, để không khí ấm cúng gia đình xoa dịu những ưu lo đã khiến tôi khó ăn khó ngủ.
Mẹ tôi dọn một bữa cơm thật ngon, đầy đủ các món khoái khẩu cho thằng con tham ăn từ xa về thăm nhà. 3 tô canh, 3 món xào, ba món kho la liệt trên bàn, vậy mà lòng tôi cũng không hào hứng mấy. Đầu óc tôi không gạt bỏ được những con số ám ảnh, sắp đến ngày trả tiền lương thợ, rồi phải lo tiền nhà, tiền hàng..., đủ thứ chi phí mà tiệm thì ế như Chùa Bà Đanh.
Mẹ tôi ngồi nhìn tôi ăn không nói gì. Hôm nay mẹ không chọc ghẹo, không la mắng, không đòi tiền, cặp mắt bà xăm xăm đi guốc xọc vào chiếu tướng từng cử chỉ của tôi.
Ăn cơm xong, mẹ tôi lửng thửng đi vào phòng và gọi tôi đi theo. Cái tướng Mẹ đi chậm rãi, đôi vai gầy gập lại vì đã bao năm tần tảo buôn gánh bán bưng, cái lưng thẳng thanh tao thời con gái của mẹ giờ đây đã còng xuống.
Tôi theo mẹ vào phòng, mẹ bảo tôi ngồi xuống giường. Bà lục lọi tìm ra một cái túi giấy dày cộm đưa cho tôi. Bất ngờ và ngỡ ngàng, tôi mở ra coi. Trong túi có 5 xấp tiền một trăm đã được sắp xếp ngay ngắn. Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, tôi chỉ ngó qua đã biết 5 bó ấy là $50,000.
- Mẹ đưa tiền cho con làm gì? Tôi hỏi.
- Mẹ biết con đang kẹt.
- Ai nói cho mẹ biết?
- Mẹ là mẹ con, nhìn cái mặt như cái bánh bao chiều của mày, Mẹ biết.
Tôi bật cười:
- Cám ơn Mẹ. Dạo này con gặp nhiều khó khăn, con không cho mẹ biết vì sợ mẹ lo buồn. Sao mẹ có nhiều tiền vậy?
- Tiền mẹ để dành và chơi hụi. Cầm lấy, đừng hỏi nữa.
Tôi cầm túi tiền của mẹ, vừa mừng, vừa thẹn. Thẹn vì lúc nào mẹ cũng chê mắng bảo tôi không phải là đứa con rượu của bà. Vậy mà bất cứ khi nào tôi không có lối thoát, mẹ tôi luôn là một ánh sáng trong đường hầm.
Ai cũng bảo tôi giống mẹ, nhưng lại thòng thêm một câu “con giống cha là nhà có phúc.” Tôi không biết mình giống mẹ hay giống bố. Nhưng nếu chỉ được một phần giống mẹ thì tôi đã quá vui. Chắc là tôi giống cái tính không sợ trời sợ đất, không sợ bị chê bai của Mẹ.
Tôi nhớ hồi ở bên Phi, tôi chưa đầy 12 tuổi. Sau khi ăn trưa, tôi nằm ngủ trưa trên cái sạp gỗ. Bên ngoài trời vừa nóng vừa ẩm, mồ hôi nhễ nhoại. Lũ ruồi như tìm được món mồi béo bở cứ thi nhau xông vào tôi chích lấy chích để. Mẹ tôi đang ngồi chuyện gẫu với một bà bạn. Một tay bà cầm cái quạt phe phẩy, một tay Mẹ cầm cái đồ đập ruồi cứ thỉnh thoảng là lại đánh cái đét vào đùi tôi để đuổi đám ruồi đang tấn công thằng con. Rồi vừa quạt đuổi ruồi Mẹ vừa chép miệng than thở:
- Thật là khổ. Tôi ra đi bỏ lại hết gia tài sự sản, bao nhiêu là nhà, là đất. Bỏ lại cả chục đứa con khôn ngoan của tôi. Ra đi tay không, chỉ đem theo mỗi hai đứa con xấu nhất và ngu nhất.
Tôi nằm im, tuy giả vờ ngủ nhưng trong đầu thắc mắc, đứa nào xấu, đứa nào ngu? Chị tôi là con lai, ai cũng khen đẹp. Còn tôi thì luôn bị mẹ chê là xấu nhất nhà. Tôi nực lòng nhiều lúc hỏi Mẹ, “Mẹ ơi trong nhà mình ai đẹp trai nhất?” Mẹ luôn nhìn tôi chép miệng, “Ối giời ơi, con mẹ ai cũng đẹp chỉ có mày là xấu nhất nhà.” Nói xong mẹ tôi lại bình thản cho heo ăn.
Hôm ấy, thời tiết nóng nực, tôi phải nằm trên cái sạp gỗ cọc cạch, cứng ngắc này, tôi cảm thấy bực bội. Tức quá không chịu được nữa, tôi vùng lên:
- Mẹ nói ai ngu, ai xấu?
Chả thèm trả lời, Mẹ cầm cái đồ đập ruồi đập cái phẹt vào vai tôi.
- Ngủ đi, nằm đó mà hóng chuyện.
Tôi đành phải nằm xuống giả vờ ngủ tiếp. Mà lòng còn ấm ức cho đến bây giờ.
Cầm túi tiền mang cất đi, tôi nghĩ chắc là tôi giống mẹ cái tính biết buôn bán, biết tiết kiệm? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, mẹ chắc chắn có nhiều võ hơn tôi, nhiều nhà, nhiều của cải, nhiều con cái...
Lại phải nhớ tiếp cái ngày nghiệt ngã mà mẹ nói chuyện với bà hàng xóm bên Phi.
- Hồi còn ở ngoài Bắc, tôi làm rượu nếp bán chạy như tôm tươi. Có chút máu địa chủ từ ông bà để lại, có bao nhiêu tiền, tôi mua hết đất đai nhà cửa của mọi người bỏ xứ di cư vào nam. Nhưng rồi cuối cùng chỉ còn mỗi mình tôi trong làng. Cuối cùng tôi đành phải bỏ lại hết nhà cửa đất đai mang hai đứa con gái nhỏ và ông chồng binh quân vô nam, không tiếc của gì bằng tiếc ruộng với đất...
Bà hàng xóm vừa hớp trà vừa hỏi:
-Thế không bán được gì hết?
-Có ma nào ở lại mà mua, cả làng bán hết đất đai cho tôi rồi bỏ đi. Đồng không nhà trống chỉ còn lại mình vợ chồng tôi và hai đứa con, nên đành quẳng gánh vào nam thôi. Sau khi vô Nam, tôi bắt đầu gầy dựng trở lại, buôn hàng bán quán, cùng lúc đẻ thêm chín đứa con. Rồi cũng dành dụm đủ tiền bạc lại mua đất xây ngơi. Tôi xây căn nhà to đùng cao nhất xóm. Nhà 5 tầng lầu bê tông cốt sắt kiên cố. Mười mấy cái cửa sắt, bao nhiêu phòng ốc, một mình tay tôi toan tính, xoay xở, ông chồng tôi không ngó ngàng tới chuyện gì.
Bây giờ, cầm tiền của mẹ trong tay, tôi biết đây là món tiền bao nhiêu năm dành dụm của mẹ. Hơn mười đứa con, đứa lấy chồng lấy vợ, đứa mở nhà hàng, đứa mua nhà mới, đứa học lên cao, lúc nào mẹ cũng có tiền dúi tay cho từng đứa chúng tôi, tuy miệng mẹ lúc nào cũng la mắng chê bai lũ con, nào là làm biếng, nào là dài lưng tốn vải, chả thằng nào con nào giống mẹ.
Mẹ chê cũng đúng. Tôi còn nhớ hồi còn ở Việt Nam. Mẹ buôn bán cả ngày, chiều về thì chăm nuôi cả một trại heo. Mỗi sáng sớm khi cả nhà còn ngủ, mẹ đi gánh nước gạo, mang về nấu cám cho heo ăn heo mập. Chỉ một tay mẹ, từ 4 giờ sáng đến 12 giờ đêm. Tôi thấy mẹ chỉ “tranh thủ” ngủ lúc mẹ đang nhặt rau hay đang thái thịt.
Qua đến Mỹ, mẹ đi làm trong khách sạn, đi làm overtime, và đi học tiếng Anh. Muốn bảo lãnh các con, mẹ phải cần có tiền, phải lấy bằng được quốc tịch Mỹ. Hàng ngày mẹ học hành siêng năng không sót một chữ nào. Có chữ nào trong sách mẹ thông thạo chữ đó. Tuy mẹ không biết viết tiếng Anh, nhưng nghe chữ nào mẹ nhớ chữ đó, bà thầy giáo chỉ cần hỏi một câu “how are you?” là mẹ xổ ra một tràng “I am fine thank you and you? I have eleven children, five boys, six girls. I have been in America 2 years….”
Mẹ sẽ không ngừng nói cho đến khi bà giáo bảo mẹ dừng lại.
Đến ngày đi thi quốc tịch, Ba Mẹ và hai chị em tôi cùng vào một phòng thi. Vì không biết viết tiếng Anh, ba tôi quay sang hỏi “Mày chỉ cho bố mẹ với…” Thấy bà giám khảo đang ngồi soi mói, tôi nói “thì mẹ với bố cứ vẽ gà vẽ vịt vào, sợ gì.’
Bố nghe cau mày lại, còn Mẹ, ngồi không buồn bị thằng con thách đố, bà vẽ 2 con gà và 2 con vịt vào tờ giấy thi. Khi thi xong, họ nhìn và đánh rớt hết cả hai người. Mẹ chửi: “Cái thằng mất dạy, mày phá hoại làm nó đánh rớt mẹ, thế bây giờ làm sao bảo lãnh anh chị em mày?” Tôi ra năn nỉ bà giám khảo, nói rằng mẹ tôi không biết viết nhưng biết nói. Hay là bà thử hỏi một câu xem sao. Bà giám khảo hỏi mẹ một câu, “Who is the first president?” Mẹ trả lời, George Washington. Bà hỏi thêm một câu nữa trên đề thi. Mẹ trả lời xong, tự hỏi tự trả lời một lúc thêm mấy chục câu. Bà nói dừng lại mẹ cũng không dừng mà thao thao bất tuyệt đọc cho hết mọi câu mẹ đã học thuộc. Bà giám khảo buồn cười và quyết định cho mẹ đậu quốc tịch Mỹ.
Thế rồi mẹ cũng bảo lãnh được cả đàn con sang ở với Bố Mẹ.
Bố tôi là một ông quan lớn khó khăn nhất trong nhà. Ông sẽ không ăn uống gì nếu mẹ không dọn sẵn mâm lên bàn cho ông. Ông có thể nhịn đói cả tuần nếu mẹ không có nhà hầu cơm rót nước. Mẹ thì việc gì cũng dám làm. Bố thì việc gì cũng ngại. Mẹ kể chuyện ngày mẹ đi lễ sáng và tìm thấy một em bé gái ở ngay bên cạnh đống rác. Tuy đã có 9 đứa con, mẹ nhất định mang em bé về nhà nuôi. Bố tôi phản đối kịch liệt, “Nó là con lai, bà nuôi nó ai cũng nghi ngờ tưởng bà có chửa hoang, gia thế mất mặt…” Ông nhất quyết nói “Nếu bà nuôi nó thì tôi sẽ bỏ đi.” Mẹ tôi thản nhiên dí cho bố tôi một túi đồ và một mớ tiền và tiễn ông lên xe lam ra đi. Sau khi đi một vòng tiêu hết tiền, chả biết làm gì, bố tôi lại quay về nhà và đành phải chấp nhận. Khi chị Lai lên 1 tuổi, chị luôn luôn ngồi trên vai bố tôi đi cùng khắp lối xóm.
Nhưng dù bố tôi có khó tính cỡ nào đi nữa, mẹ tôi cũng có cách trị ông. Có lần khi bố tôi say rượu, mẹ tôi mới dọn cơm lên bàn, bố tôi nhìn những món ăn không ngon ông quẹt hết xuống đất. Mẹ bảo chúng tôi tất cả ngồi xuống đất phủi bụi ăn tiếp. Bố tôi không biết làm sao cũng đành ngồi xuống đất. Sau đó ông lại giở trò đổ ly nước vào cơm. Mẹ tôi nói: “Này chú Ba, lần sau có muốn tôi không ăn thì nhanh tay hơn một chút, chứ chậm chạp như vầy tôi đã ăn xong no rồi. Đằng ấy muốn làm gì thì cứ làm, tôi đi ngủ đây.”
Bố tôi trong lúc say xỉn đưa tay lên định bợp tai mẹ, Mẹ nhanh nhẹn một tay đỡ, một tay nắm cổ ông, nhìn thẳng vào mặt ông, nói: “Nghe tôi bảo, đằng ấy không muốn ăn thì thôi, chứ đặt tay lên tôi thì tôi không nhịn đâu nhé!” Bố tôi xụi lơ, ngồi im thin thít. Từ đó không bao giờ dám làm dữ nữa.
Sau 75, mẹ tôi hay giễu “Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm.”
Mà quả đúng vậy, lúc mới qua bên Phi, đất sỏi cằn cỗi, khô khan. Trời nóng bức chả có gì để ăn, để uống. Mẹ đi đâu mang về được một cái cuốc. Lại một tay mẹ, mặt trời nắng gắt, mẹ cuốc những cục đá cứng, những lô đất khô cằn bỏ không, chỉ trong vài tháng mẹ đã biến nó thành vườn rau sum suê. Ai cũng đến mua rau của mẹ. Mẹ bán rau dành giụm tiền mở một gian hàng nhỏ buôn bán bên Phi. Đủ tiền sống qua ngày. Đến lúc mẹ sang Mỹ còn để dành được một mớ không ít.
Lúc nhỏ tôi không thấy mình giống mẹ mấy, nhưng càng lớn lên tôi càng mong muốn mình chỉ được một phần giống mẹ. Mẹ tôi chịu thương, chịu khó, rộng rãi, nhân hậu, nhìn xa, trông rộng. Mẹ tôi yêu chồng, thương con, bảo bọc cho tất cả anh em, cả dòng họ, lo lắng cả cho bạn bè của chúng tôi. Trong những giờ cầu nguyện, mẹ chỉ nguyện cho các con của mẹ nên người.
Bố tôi qua đời, ông ra đi bình an, nhẹ nhàng trong vòng tay của Mẹ. Còn mẹ tôi, một đời chịu khổ, bây giờ bà chỉ còn một mình, quanh quẩn trong nhà chờ các con về trò chuyện cho qua ngày.
Anh chị em chúng tôi mỗi người đều học được tính tự lập, tự trọng, nghiêm chỉnh của mẹ. Vì chúng tôi ai cũng muốn làm vừa lòng mẹ, ai cũng chịu khó, cố gắng vươn lên. Nhưng nhìn lại đời mình, tôi không thể nào so sánh với cuộc đời Mẹ. Chúng tôi không ai có được trí thông minh bén nhạy, cũng không ai có một quả tim bát ngát như mẹ.
Chỉ mong những chuỗi ngày còn lại của mẹ, anh chị em chúng tôi sẽ làm cho mẹ vui, làm cho mẹ cười nhiều.
Mẹ ơi, cái gói mẹ cho, thằng con xấu xí của mẹ đã phá hết lâu rồi. Coi bộ làm ăn chưa có mòi khá lại. Nó cũng biết khi đọc bài này mẹ sẽ chửi “bố cái thằng mất dạy.” Và cười.
Lê Thi
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2021
|
#217
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Nghề Và Ngỗng
Mùa hè năm ngoái tui có đem gia đình dìa Santa Ana nghỉ hè, luôn tiện thăm ông anh và vài bạn bè quen biết cũ . Không hiểu đây là lần thứ mấy tui đến đây để nghỉ hè, nhưng hình như mỗi lần dìa Santa Ana, tui lại thấy háo hức, giống như là dìa quê, mặc dù tui chưa bao giờ định cư ở đây cả ! Tui đang ở Houston, thành phố cũng tấp nập và sầm uất những dịch vụ buôn bán của người Việt mình, cũng có rất nhiều hội đòàn và sinh hoạt cộng đồng, báo chí đếm không xuể và đài phát thanh thì có thể nghe từ lúc còn nằm trên giường chưa thức dậy tới lúc nửa đêm, hết đài này qua đài khác ! Nhưng hình như Houston vẫn còn thiếu một cái gì đó rất Sài Gòn trong ký ức, một quán cà phê vỉa hè, một ổ bánh mì một dĩa cơm tấm điểm tâm buổi sáng, một tờ nhựt trình còn thơm mùi mực in trong quán phở, một nhà báo hay một ca nhạc sĩ ngồi phì phèo điếu thuốc trong nhà hàng, một câu chuyện phím nổ như bắp rang ngay giữa chợ, và tiếng người cười nói líu ríu như tiếng chim trên đường phố ...
Về Santa Ana lần nào cũng vậy, ngày nào hai vợ chồng và mấy đứa con cũng kiếm cớ đi ăn tiệm, không cần phải cao lương mỹ vị, nhưng it' ra cũng phải những món mà theo lời vợ tui nói, không thể tìm ở đâu ra ! Ngay bửa chiều hôm đầu tiên bà chị dâu, cũng thuộc loại có tâm hồn ăn uống như hai vợ chồng tui, chở nhau ra một quán bún bò Huế tương đối xập xệ so với những hàng quán khác ở quận Cam, cách nhà ổng bả vừa đúng năm phút lái xe ! Quán chỉ có độ trên dưới mười cái bàn, mỗi bàn chỉ có khoảng năm sáu cái ghế ! Dòm thấy ánh mắt hơi nghi ngờ của vợ chồng tui, bà chị dâu đã trấn an: "Tiệm này chủ yếu là bán "to go", thậm chí còn nhận đặt nguyên nồi cho cả nhà hay đặt tiệc tùng, coi xập xệ nhưng ăn một lần nhớ đời luôn . Bà chủ người Bắc mà hổng hiểu sao nấu bún bò còn ngon hơn mụ Rớt chánh hiệu nữa" . Lúc tụi tui đang kéo hai cái bàn lại cho đủ chổ ngồi cho hai gia đình thì một ông bồi bàn cầm menu ra ! Quán xá coi nghèo nàn vậy chứ ông bồi bàn ăn mặc lịch sự hết sức ! Người bồi bàn ra lấy order là một người đàn ông độ khoảng trên dưới 40, ăn bận rất đàng hoàng áo sơ mi bỏ trong thùng đeo mắt kiếng dòm rất trí thức, tui đoán là ổng nếu không là công chức làm việc văn phòng thì cũng là giáo sư giáo siếc gì đây . Và chắc ông này mới qua Mỹ nên đang làm tạm bợ một công việc nào đó trong nhà hàng, trong thời gian tìm một nghề thích hợp . Tui chợt nhơ’ lại rất nhiều người khi mới chân ướt chân ráo qua Mỹ, nhứt là những người tuổi tác lở dở lại thêm gánh nặng con cái gia đình, chưa kể những người còn phải có trách nhiệm bên Việt Nam, đành phải làm tạm bợ đủ thứ nghề ! Tuổi tác thì đã cao không có thể tới trường để học lấy một cái nghề chuyên môn, lại không có vốn liếng anh ngữ, thêm nữa gánh nặng gia đình bên Việt Nam nên nhiều người phải "bung" ra đi làm kiếm tiền . Có điều đáng nói là ông bồi bàn "bất đắc dĩ" này có vẻ không thích cái nghề ổng đang làm cho lắm, ổng ném cái menu lên bàn, gương mặt cau có lạnh như tiền như muốn nói : "Tui là không phải làm cái nghề này đâu . Cái nghề này chỉ là nghề tạm bợ mà thôi . Ngày trước còn lâu tui mới thèm làm ba cái nghề này, và sau này thì càng không thể nào" . Lúc ổng bưngđồ ăn ra thì ổng lại "giằng mâm xáng chén", y như thể là ban phát ơn phước cho tụi tui vậy ! Tui tuy cảm thông với tâm trạng "thất thế" của ông bồi bàn bất đắc dĩ này, nhưng cũng cảm thấy hơi bực mình vì mình vào nhà hàng ăn trả tiền đàng hoàng chứ đâu có đi xin đâu mà bị đối xử tệ bạc như vậy . Ngó thấy ông bồi bàn mà tui vừa thấy tội nghiệp vừa thấy thương hại, phải chi ổng vui vẻ chấp nhận cái nghề tạm bợ này thì ổng làm việc vui vẻ mà khách hàng cũng hổng cảm thấy bị bạc đãi . Thái độ của ông bồi bàn còn làm
cho tui liên tưởng đến những ông chủ tiệm người Tàu bận quần xà lỏn áo thun ba lỗ vàng khè, nói thiệt tiền bạc của mấy ông Tàu này đốt mình còn hổng hết, vậy mà mình thử vào quán ổng mà coi, ổng sẽ một điều ông chủ hai điều ông chủ khúm núm phục vụ . Đó là vì ông chủ người Tàu biết rằng mình đang bán hàng, khách là người đem tiền bạc đến cho mình, mình phải vui vẻ để họ còn trở lại.
Nhớ lại câu chuyện trên làm tui liên tưởng tới vấn đề nghề nghiệp của người Việt mình từ khi đặt chưn đến vùng đất mới . Vì hoàn cảnh, vì khả năng sinh ngữ hạn chế, có rất nhiều người trong chúng ta phải đang làm những cái nghề hổng có phù hợp với năng khiếu và sở thích chút nào hết . Công việc làm chỉ là phương tiện kiếm cơm, còn sở thích hay khả năng lại là chuyện khác . Hồi tui mới sang Mỹ ghi danh đi học, sinh viên Việt Nam trong trường hết 90% là theo học hai ngành điện và computer, sau này ngành điện ra trường hơi khó kiếm job nên bà con đổ xô đi học civil (công cha’nh) . Vì bởi hai ngành này không cần khả năng sinh ngữ nhiều, chỉ cần bập bẹ vài ba câu tiếng Anh và đọc được môt. số chữ chuyên môn là có thể gồng mình ”bắt lạc đà chui qua lỗ kim” được . Sau này lớp trẻ lớn lên, nhờ đi học trường Mỹ từ nhỏ, tiếng Anh đâu có thua gì bọn Mỹ nên tụi nó mới có thể theo học những cái ngành mà có nằm mơ mình cũng hổng dám nghĩ tới như ngành luật sư, ngành khảo cổ, ngành diễn viên, ngành quảng cáo, hay ngành văn học nhân văn lịch sử ... Nghĩ như vậy tui mới thấy tiếc là dù rằng mình đang sống ở nước ngoài, tuy có nhiều điều kiện để hấp thụ những kiến thức khoa học hiện đại, nhưng đâu phải ai cũng có năng khiếu hoặc những sở thích về khoa học đâu, nếu tui thích thơ văn và mơ ước trở thành một ông giáo dạy văn chẳng hạn thì làm sao tui thực hiện được mơ ước của mình . Hổng lẽ rán rặn mọ học Anh ngữ để sau này ra dạy những Hamlet của Shakespeare " Mà với cái accent của tui, nói những câu thông thường bọn Mỹ phải cau mặt nhíu mày mới hiểu nổi thì can đảm nào tui dám đứng trên bục giảng mà giảng văn giảng thơ cho học trò nghe " (Mà cho dù tui có điếc hổng sợ súng rán đi học thì có ra trường cũng hổng ai thèm mướn) ! Mà đâu phải chỉ mình tui đâu, tui có thằng bạn mê đá mê đất và từng mơ ước sẽ làm một nhà khảo cổ, vậy mà bây giờ vì thời thế vì miếng cơm mà nó phải đi học ngàng civil, tối ngày xách xe chạy ngoài đường lo xây cầu xây cống . Ít ra thì nó cũng làm cái công việc liên quan tới đất đá, còn hơn một thằng bạn khác của tui, từng mơ ước sau này sẽ làm thầy cãi đấu tranh cho công bằng xã hội, mà bây giờ nó đang kẹt lại ở Sài Gòn, dùng cái khả năng ăn nói trời cho của mình và một mớ kiến thức đi chạy áp phe, chạy mánh !
Tui có hai đứa cháu, sang Mỹ hồi 8, 9 tuổi, bây giờ đang chuẩn bị vào đại học . Má tui có hỏi chị Hai tui là tụi nó định học cái gì, bác sĩ hay kỹ sư " Bà chị Hai tui nói thằng con trai lớn vì ham thích dế, thằn lằn, cóc, nhái, ểnh ương, nên quyết định đi học ngành "côn trùng học", còn con nhỏ con gái vì cặp với một thằng Tàu nên bị nó trù quến nên đi học ngành "Văn Chương Cổ Trung Quốc" . Bà má tui mới nói sao bà chị Hai tui hổng cản, để cho tụi nó học mấy cái ngành gì hổng có thực tế sau này lấy cái gì mà ăn . Má tui chép miệng than, con cháu người ta thì bác sĩ này, nha sĩ nọ, còn con cháu của mình là "thằn lằn sĩ", "ểnh ương sĩ, với lại "văn chương cổ tàu sĩ" !
Cũng như bao nhiêu người lớn tuổi khác, má tui chỉ thích con cháu làm bác sĩ kỹ sư để nở mày nở mặt với bà con họ hàng, chứ mấy cái ngành "mắc toi" hổng nghe ai nói tới thì sau này làm sau nuôi nổi thân, nói gì còn gia đình con cáị Cũng giống như có lần thằng bạn tui tới nhà bạn gái của nó chơi, bà má con bạn nó dòm nó bằng nửa con mắt rồi hỏi bằng cái giọng móc họng :
- Cậu có bằng (cấp) gì không vậy "
Thằng bạn tui nghe bả hỏi xóc hông như vậy tức muốn trào máu nhưng cũng nhũn nhặn trả lời :
- Dạ có chứ bác ! Con có tới hai cái bằng lận ! Một cái bằng lái và một cái bằng nails!
Mà bạn co’ để y’ một điều là nghề nghiệp của những người qua sau này thường thì sẽ đi theo ca’i nghề của người thân bảo lãnh qua trươ’c ! Một bà chị mở tiệm nails thì che’m chê’t mâ’y đư’a em qua sau này cũng chui tọt vô đo’ mài mài dũa dũa ! Môt. ông anh làm nghề môi giơ’i mua ba’n nhà cửa thì sau này mâ’y đư’a em cũng co’ đư’a theo ngành loan officer ! Tui co’ một thằng bạn hồi ở Việt Nam bộ bài 52 la’ chưa bao giờ sờ tơ’i, vậy mà khi được ông anh và bà chị dâu bảo lãnh về Las Vegas, bây giờ ca’i nghề chi’nh của no’ là chia bài ! Cũng may no’ không phải là thư’ dân co’ ma’u đen đỏ, chư’ nê’u không thì vơ’i những ca’i bo’ng đèn xanh đỏ chơ’p tă‘t đầy ma lực đo’ thì làm bao nhiêu mơ’i “cu’ng” cho đủ "
Ở bên Mỹ này có những nghề mà ngày xưa ở Việt Nam mình chưa hề nghe nói tới, chẳng hạn như nghề trang điểm cho người chết hay nghề cố vấn tâm lý hay cố vấn hôn nhân ! Nếu bạn có dịp đi dự đám tang người quen và có can đảm "dòm" vô mặt người mới qua đời thì bạn sẽ không phải hét lên một tiếng kinh hoàng vì gương mặt nhợt nhạt của người quá cố ! Trái lại là đằng khác, vì trước khi đặt người chết vô quan tài cho thân nhân và bè bạn "nhìn nhau lần cuối", họ đã được những chuyên viên trang điểm lại, da dẻ hồng hào, mới dòm tưởng là người chết đang nằm ngủ ! Còn cố vấn hôn nhân ư " Vợ chồng ở Mỹ này hở một chút là đem chuyện chăn gối mền mùng ra kể cho một chuyên viên tâm lý có bằng cấp hậu đại học tương đương với học vị tiến sĩ . Và cũng vì bằng cấp cao như vậy nên những vị này cũng chém, hổng đẹp hổng ăn tiền ! Tui hổng biết có phải là trưởng giả học làm sang hay không, hay những vị chuyên viên cố vấn hôn nhân này học chưa đến nơi đến chốn mà càng cố vấn bao nhiêu thì tui lại thấy bọn họ xách chiếu ra tòa ly dị xoành xoạch . Nhiều khi nghĩ những cặp vợ chồng bên Việt Nam đánh nhau, thậm chí lấy dao rượt nhau chạy từ đầu trên xóm dưới, vậy mà mới buổi sáng còn phang nhau gọi nhau bằng những từ ngữ cạn tào ráo mán, buổi chiều đã thấy họ ngồi bên mâm cơm chan chan húp húp và nhìn nhau vô cùng âu yếm !
Người Việt mình có thói quen tôn trọng những người có bằng cấp, và hình như hơi khinh rẻ những người lao động chưn tay ! Những nghề hạ tiện bên nhà như đi+ làm mướn, hay nói nặng nề hơn, là đi ở đợ, thường thì phải ở luôn trong nhà chủ, mỗi năm ngoài tiền lương còn được tặng thêm hai bộ quần áo, mặc ăn Tết ! Bên đây nghề dọn dẹp nhà cửa làm theo giờ, thậm chí còn có những hãng thầu chuyên cung cấp những người tới dọn dẹp nhà cửa cho những gia đình cả hai vợ chồng cùng đi làm, lương bổng cộng thêm tiền tip cũng khấm khá ! Có những cặp vợ chồng HO, bây giờ trên dưới sáu chục bó, đâu có nghề nghiệp gì, ở với con cháu không được vì mặt con dâu thì "sưng" triền miên còn con rể thì "lạnh lùng sương rơi heo may", nên đành đi giữ trẻ cho những cặp vợ chồng có con mọn, vừa có chỗ ở miễn phí, khỏi phải phiền hà con cháu ma `tình cảm cũn đỡ sứt mẻ, vừa được đài thọ ăn uống, tháng tháng lại được tặng thêm vài trăm cho bà ăn trầu (mặc dù bà chưa hề ăn trầu bao giờ), cộng với tiền già của ông Bush, dư xăng cho ông bà gửi về bên nhà giúp đỡ con cháu, hay thỉnh thoảng, đi du lịch, làm "khúc ruột ngàn dặm" dìa thăm quê hương !
Có một điều cũng hơi tréo cẳng ngỗng là bên Việt Nam mình muốn làm gì thì làm, hổng thấy ai hỏi là mình có bằng cấp gì không ! Bên Mỹ này thì làm nails làm tóc cũng phải treo cái bằng chình ình bên cạnh tấm kiếng chỗ khách soi mặt ! Bác sĩ cũng phải treo bằng tốt nghiệp ! Chỉ có làm ca sĩ thì muốn ca bao nhiêu thì ca, hét bao nhiêu thì hét, chẳng ai hỏi han bằng cấp là cô hay anh tốt nghiệp trường đại học âm nhạc nào ! Chỉ có ở bên Việt Nam mình, có phải muốn làm ngược đời bên Mỹ nên đòi hỏi ca sĩ phải có bằng hành nghề ! Tui thì chỉ nghĩ là trong nước chỉ muốn làm những gì khác với ở bên này, chứ báo chí thì nói là tại văn nghệ phải có sự chỉ đạo, bạn nghĩ sao "
Thôi để chấm dứt bài viết về chuyện nghề và ngỗng này, tui kể cho bạn nghe câu chuyện của hai tía con tui . Hồi thằng con tui tám tuổi, tui hỏi nó:
- Lớn lên con muốn làm gì "
- Con muốn làm nghề đổ rác !
Tui nghĩ bụng "thôi rồi còn chi đâu em ơi", bên này làm gì có chuyện công nhân vệ sinh được ra ứng cử quốc hội như bên Việt Nam, nhưng cũng nuốt nước miếng, hỏi lại:
- Sao vậy "
- Tại vì làm hãng như ba mỗi tuần làm tới năm ngày, còn đổ rác mỗi tuần làm có một ngày thôi !
NGỌC DUY
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2021
|
#218
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Lấy Mễ
Nhiều người trong chúng ta khi mới đến Hoa Kỳ không phân biệt được người Mỹ trắng và người Mễ, thấy họ khác chúng ta và nhất là thấy không phải là ông Mỹ đen thì trong thâm tâm rất lấy làm kính trọng.
Dăm ba tháng, một vài năm sau thì tình hình đổi khác. Tự nhiên ta thấy họ lùn, mập, da không được trắng, đi xe xấu, ở nhà tồi, hay đánh nhau, ăn cắp, ở dơ, làm công việc "hạ tiện", uống bia, không biết tôn trọng hàng xóm khi mở nhạc chát chình chát chinh om xòm v v... thôi thì đủ thứ tật xấu!
Chẳng phải chúng ta tự tìm ra điều đó, mà do những người đến trước dè bỉu, phê bình, mà có chắc đâu những lời phê bình đó là đúng.
Hãy đến các công sở ở vùng Orange County mà coi, người làm việc ở đây hầu hết là người gốc nói tiếng Tây Ban Nha, họ nắm giữ nhiều chức vụ cao trong guồng máy chính quyền (mà người Việt đã được mấy người). Chắc ai trong chúng ta cũng đều biết và tôn trọng bà Dân Biểu Loretta Sanchez, bà đã từng sát cánh với người Việt trong nhiều vấn đề mà cộng đồng quan tâm.
Người Mễ tánh tình cởi mở và thân thiện, gặp là “Como esta Seno” rối rít cả lên. Họ dù có giấy tờ hợp lệ hay không đều chịu khó làm những công việc vất vả nặng nhọc, mà các sắc dân khác không ai thèm làm kể cả người da đen.
Tôi không thể tưởng tượng được nếu không có người Mễ thì xứ Mỹ này ra sao, những ai sẽ là người dang nắng dầm mưa hái cho chúng ta từng trái dâu cho đến cái bắp cải(")
Những người làm nghề xây dựng sẽ lấy đâu ra công nhân đào đất, tráng xi măng hay lợp mái nhà.
Họ có sức khoẻ và không đòi lương cao, nhưng có điều họ không hề chung thuỷ: Tôi làm nghề Construction khá lâu và chưa thấy anh Amigo nào ở bền với mình, cho dù tôi đã từng cho một anh cái xe truck khá mới; Noel hay tết đều có phong bao lì xì riêng cho từng công nhân.
Họ hơi giống những người miền quê sông nước của tôi là bóc ngắn cắn dài, làm tới đâu lủm tới đó, không mấy khi để dành. Mua xe thì lựa mua chiếc nào chiếc nấy bự tổ chảng, uống xăng như chủ nó uống bia vậy. Mấy người làm với tôi không bao giờ chịu mua từng xâu nước ngọt 99 cent, bỏ trong thùng đá mà uống cả ngày, mà mỗi lần có xe lunch tới thì họ mua 1$/1 chai mà uống. Họ đi chợ thì ôi thôi mỗi gia đình chất đồ ăn đầy lên có khi tới hai xe lặc lè.
Chúng ta thường than phiền là người Mỹ không coi chúng ta bình đẳng, cho dù chúng ta đã thành công trên công việc và thương trường, con cháu chúng ta học rất giỏi, nhưng hãy tự xét lại chúng ta khi đối xử với những sắc dân khác coi thế nào"
Có khi nào chúng ta lại là "Chúa chổm" phân biệt chủng tộc hay không (")
Có rất nhiều người vẫn quen miệng gọi người da trắng là "Ông Mỹ trắng", nhưng gọi người gốc Phi Châu là "Thằng cha Mỹ Đen", đến người Mễ thì tụt xuống hạng thấp hơn nữa: "Mấy thằng Amigo"!
Cứ khu nào đông Mỹ trắng thì nhà có mắc hơn nhiều chúng ta cũng lăn xả vào mua; thấy ai ở khu nào đó có đa số dân Mễ là chê bai ở khu xập xệ, nhiều tội ác.
Đó là nói chung chung, còn việc cô con gái cưng mà lại dẫn về giới thiệu một anh Mễ thì ôi thôi... cả nhà phản đối ngay lập tức.
Có những bậc cha mẹ có con lấy người Mỹ, Mễ rất phiền lòng, chẳng phải họ sợ con họ sau này khổ sở hay người đồng hương phê bình này nọ, mà ngay từ khi tổ chức đám cưới đã thấy trật rơ, nó lạt lẽo làm sao ấy, tiệc cưới ở nhà hàng cũng vậy; rồi tình suôi gia, tình bố vợ con rể nó cũng lạt nhách, gặp nhau thì cũng "How are you; I am fine; I'm glad to see you ..." rồi thế là tịt ngắc, đâu có cái cảnh anh chị suôi người Việt chúng ta ngồi kề cà nói chuyện quê hương, tâm sự hay chia sẻ vấn đề học hành của con cái v v..
Người con gái Việt lấy đàn ông Mễ không nhiều, mà có chăng nữa thì ông này cũng phải thuộc dạng cao ráo đẹp trai và tương đối có chức vụ, nhưng con trai Việt lấy gái Mễ thì khá đông.
Giống dân Mễ (nhất là con gái) lai giữa người bổn xứ Da Đỏ và người Âu Châu rất đẹp: Da trắng, tóc dợn sóng, đôi mắt to và lông mi cong vút, còn đồ phụ tùng thì nói theo kiểu bình dân là "Vú cho một vú; đít cho một .. đít!"
Có người nói ông trời sanh ra giống người da đen để chơi thể thao, âm nhạc và .. làm tình.
Người Mễ cũng không khác là mấy.
Họ khoái đá banh, họ mê âm nhạc một cách lạ lùng, lúc nào cũng cứ cái điệu nhạc Fox chát chình, chát chinh ấy mà nghe cả ngày, mà lại mở lớn tối đa.
Họ rất thích mở Party vào ngày Thứ Bảy. Thường thì họ qui tụ bạn bè ở một công viên nào đấy, mang đồ ăn ra đó mà nướng, nghe nhạc hoặc ca hát với nhau tới chiều. Trời thật tối họ mới kéo nhau về một nhà rồi nhảy nhót đến ba bốn giờ sáng Chúa Nhật mới vãn.
Những ông chồng người Việt khởi đầu cũng còn chiều vợ mà đi dự hàng tuần, nhưng đến những chỗ này thì cứ ngồi nghệt mặt ra, vì vợ mình với bạn bè cứ xổ rặt tiếng Mễ. Khi vào Party thì ông không thích nhảy, cứ phải ngồi chờ vợ bèn nản củ tỉ quá, toàn ngồi ngáp ruồi.
Rồi càng ngày ông càng chán cái kiểu họp mặt đó, than mệt, ở nhà coi con để vợ đi chơi một mình.
Cho dù có tin vợ cách mấy đi nữa, mà cô vợ hây hẩy ấy cứ đi gần sáng mới về với chồng thì thế nào cũng có vấn đề rạn nứt tình cảm.
Tại sở làm hay khi bù khú với bạn bè, ai cũng nói gái Mễ ..."cái vụ đó" khiếp lắm, họ xay như xay lúa. Khởi đầu những chàng trai Việt cũng thích lắm, nhưng rồi đường xa mỏi gối chồn chân, đến khi sanh một vài đứa con thì không biết vì nòi giống họ như thế, hay tại ăn uống thả dàn, cứ đậu bean và bánh bột bắp mà ních, nên bà nào bà ấy sồ ra, ba vòng bằng nhau, sau đó cái vòng cần nhỏ nhất lại vượt lên đứng đầu.
Người ta nói "Người gầy là thầy ...." nhưng như vậy không có nghĩa là người béo chịu kém thớ đâu nghen, về vụ này họ cũng khiếp lắm đấy. Chạy xe dọc đường mà thấy mấy bà đẩy cái xe con nít trên side walk thì mười bà có đến chín bà là Mễ béo rồi. Họ sanh nhiều và mắn như thỏ vậy.
Tôi biết một cặp chồng Việt vợ Mễ trông rất đẹp đôi, có công việc vững chắc thế mà chỉ trên dưới 10 năm là rã!
Ngoại trừ khác biệt về văn hoá, người Việt mà ăn đồ Mễ hoài ngán lắm, như ông chồng muốn ăn canh chua cá kho tộ thì phải nấu lấy mà ăn, và cô vợ dĩ nhiên chê cái mùi nước mắm làm ông chồng tự ái phải nổi lên, thế là to tiếng cãi vã.
Anh NNT nói rằng "Chớ có bao giờ mời Mễ đi ăn đám cưới kiểu Việt Nam, mời họ một thiệp thì họ đi hai vợ chồng với bốn đứa con cộng thêm ông bà già vợ nữa, kéo vô ngồi gần kín một bàn, mà họ nghĩ như là đi party, nên không tặng phong bì, chỉ đem gói quà là một hộp mấy cái ly hay cái bàn ủi mà thôi, mời Mễ đi nhiều thì lỗ chỏng gọng lên".
Tôi cũng nghe có anh kia lấy gái Mễ, nhà gái đi dự khá đông. Đám cưới xong anh được gần 20 chiếc đồng hồ treo tường, anh tặng lại cho bạn bè một mớ, còn bao nhiêu phải đem ra chợ trời bán được 8$/1 cái. Lời khẳm!
Tình yêu vốn không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ... nhưng nếu thằng con dẫn về nhà giới thiệu một cô tiểu thư Mễ, thì mình ra sao há" Hỏi và ôn đủ thứ chuyện mà vẫn chưa thấy câu trả lời hay ho.
Nguyễn Viết Tân
|
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
05-06-2021
|
#219
|
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Cha và Con gái
Đêm khuya tôi đưa em gái mình vào phòng bệnh viện đợi sinh. Ngồi phía trước phòng cấp cứu, tôi thấy một người đàn ông đã ngoài 50 tuổi với vẻ mặt khắc khổ, lo lắng và luôn thấp thỏm nhìn vào trong. Trong đầu có chút tò mò nên tui liên tục quan sát. 15 phút, 30 phút và 45 phút trôi qua người đàn ông ấy vẫn cứ thấp thỏm đứng lên ngồi xuống. Tôi vội thốt lời hỏi "Anh chờ người nhà sanh à? vào phòng lâu chưa anh?"
Người đàn ông ấy trả lời "con gái tôi vào cũng được 6 tiếng đồng hồ rồi nhưng chưa thấy bác sĩ thông báo gì?"
Tự nhiên trái tim tôi thắt lại cũng chẳng hiểu lý do gì, có lẽ vì bất ngờ khi thấy hình ảnh một người cha đưa con mình đi sinh. Tôi lại tò mò và hỏi "người nhà không có ai là phụ nữ hả anh? Vì anh là đàn ông chăm con gái sinh rất bất tiện"
Người đàn ông ấy cuối đầu xuống thấp một chút, và giọng cũng nhỏ đi "Mẹ nó mất sớm, chị gái nó lại có chồng phương xa, tôi một mình nuôi con nên nhà cũng neo đơn"
Tôi lại buột miệng hỏi "vậy cha đứa bé đâu anh?"
Anh mỉm cười nhẹ trên gương mặt đầy nếp nhăn và nhân từ của một người cha rồi nói "nó bỏ con gái tôi từ khi nó hay tin con tôi có thai"
Có lẽ sự thấu cảm trong tôi lúc này dâng cao, tôi thốt lời "khốn nạn quá, rồi nó có hay tin con gái anh nó sinh không anh?"
Anh nói "nó biệt vô âm tín rồi, nghe đâu nó có người phụ nữ khác, con tôi nó dại khờ nên đành thế, nhiều lần nó đòi chết, tôi khuyên nhủ nó và nói nó cố gắng sinh con, tôi sẽ ráng làm để nuôi mẹ con nó"
Tự nhiên khoé mắt tôi cay cay, không cầm được lòng tôi hỏi anh tiếp "anh làm nghề gì? Rồi sinh sống ở đâu?"
Anh trả lời "tôi chạy xe ôm công nghệ, nhà ở quận 12, con gái tôi ngày thường đi làm công nhân xí nghiệp may"
Tôi im lặng vài phút, nhìn vào phòng sinh để xem bác sĩ có gọi tên em gái mình không, rồi quay sang hỏi con gái anh ấy tên gì. Cũng chẳng biết hỏi để làm gì cả, chỉ là để biết thế thôi. Tôi nhìn vào giỏ đồ bên dưới chân của anh nó nhỏ gọn lắm, rồi quay sang nhìn cái vali của em gái mình tự nhiên tôi xót xa và thương quá.
Rồi bác sĩ kêu tên em gái tôi, tôi và người nhà vội chạy lại, mới hay thằng cháu tôi nó vẫn chưa chịu ra đời và bác sĩ lại cho về nhà. Tôi chào tạm biệt anh, cũng chẳng kịp có món quà nào cho con gái và cháu của anh, tôi chỉ kịp vội lấy trong vali em gái mình vài món đồ nghĩ sẽ cần cho con gái anh và một ít quà nhỏ cuộn vào túi đồ để anh có chi phí trang trải cho những ngày ở bệnh viện.
Anh từ chối không nhận, tôi thuyết phục anh không được. Đến khi tôi cầm cái túi lại và nói "Thứ nhất đây là món quà em tặng cho con gái và cháu của anh, nó không phải món quà của anh vì thế anh đừng vì lòng tự trọng mà không nhận cho con cháu mình. Thứ hai em cảm ơn anh đã cho em thấy được tình cảm và sự bao dung của người cha, và cảm ơn anh vì đã là người tử tế trong cuộc đời này. Nếu anh không nhận thì xem như anh phụ lòng em." Nói xong tôi quay lưng bước đi, anh vội kêu tôi lại và nói "tôi cảm ơn cô, cô cho tôi thông tin, sau này tôi nói con gái tôi đi làm trả ơn lại cho cô"
Tôi cười và trả lời "sẽ có cuộc đời trả lại cho em sau, còn bây giờ thì anh nhận món quà này và cầu chúc cho hai mẹ con em ấy được mẹ tròn con vuông, chúc anh luôn khoẻ mạnh để che chở cho cuộc đời của con và cháu mình."
Rồi bước lên xe ra về, chẳng biết bao giờ đủ duyên gặp lại người đàn ông ấy, nhưng tôi biết mình đã đủ duyên để thấy được một bức tranh đẹp trong cuộc sống này. Chúng ta vẫn thỉnh thoảng nghe câu nói "Cha không hoàn hảo nhưng luôn yêu con theo cách hoàn hảo nhất!" Và có một nghịch lý, chúng ta rất dễ nói lời yêu thương ai đó, ngoại trừ cha của mình. Thiết nghĩ cô gái trong phòng sinh ấy dù có đang trải qua những tổn thương đau lòng khi đối diện với những cơn đau thập tử nhất sinh khi phải một mình và thiếu vắng đi bóng dáng của người cha đứa bé. Nhưng điều đó có xá chi khi bên cạnh cô gái ấy giờ đây chính là tình yêu thương vô bờ bến của người cha vĩ đại trong cuộc đời mình. Chúng ta vẫn thường hay nghe những lời nói "mãi mãi" và tin vào nó, nhưng liệu mãi mãi là bao xa. Vậy mà có một tình thương chẳng bao giờ nói mãi mãi, nhưng nó luôn tồn tại từ khi chúng ta sinh ra đời đến khi lìa xa cõi đời chính là tình mẫu tử và phụ tử của cha mẹ mình dành cho chính mình.
Ngồi trên xe viết lại khoảnh khắc đẹp của tình phụ tử này khi trời rạng sáng và trên đường từ bệnh viện về nhà. Tôi lại thấy đêm nay Sài Gòn đẹp thật, hạ ô cửa kính xuống, hít thật sâu và thở ra. Mọi thứ thật nhẹ nhàng và thanh thản tận sâu bên trong.
Diệp Bùi
|
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
05-12-2021
|
#220
|
|
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
Join Date: Aug 2008
Posts: 1,635
Thanks: 16,104
Thanked 2,361 Times in 1,369 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 108 Post(s)
Rep Power: 22
|
Truyện ngắn: Em không thích trở thành “con vợ”
Anh tôi đi lao động hợp tác ở Đức về cũng có chút tiền để lận lưng. Anh tôi thích sống kiểu châu Âu, được cái vẻ điển trai nên anh nhanh chóng cua được chị. Nói đúng hơn, anh cũng chẳng phải cưa cẩm gì, chỉ mới vác cưa tới thôi chị ấy đã đổ rồi.
Anh yêu chị lắm và muốn đi đến hôn nhân, nhưng chị lại nói rằng “Em thích làm người tình hơn”. Anh hỏi chị vì sao, câu giải thích của chị làm cho anh vừa shock vừa thích thú: “Em thích làm người tình vì người tình cao sang và sạch sẽ hơn đĩ và chỉ thấp hơn vợ một tí”. Đặc biệt là chị không thích trở thành “con vợ”.
Thế là anh tôi đi lấy vợ sau hai năm hẹn hò với chị vì anh tôi đã 31 tuổi và muốn lập gia đình. Anh quyết định lấy cô bạn đồng nghiệp làm chung cơ quan tên là Yến. Khỏi phải nói, anh rất tự hào khi lấy được chị Yến.
Vào cái ngày anh nói với chị người yêu cũ lời chia tay, chị đã nói với anh: “Từ trước tới giờ anh ngủ với em bao nhiêu lần rồi anh cứ thế tính tiền mà trả chứ không cần phải ái ngại cho em đâu”.
Anh tôi sững sờ nghĩ bụng “Thì ra mình đã gặp phải con đĩ… “
Anh không nói thêm một lời nào và ra về. Để gột rửa sự ghê tởm anh lấy tất cả tiền dành dụm từ hồi ở Đức về được khoảng 5.000 USD và 20 triệu đồng đưa cho chị với lời nhắn:
“Nếu với người nào em cũng tính toán như vậy thì nhớ báo trước với họ để họ khỏi shock”.
Chị nhận tiền và đọc thư xong cười thật lớn – nụ cười như ngạo nghễ nhưng chua xót. Rồi anh cưới chị Yến. Cả nhà ai cũng vui mừng vì chị rất ngoan và tài giỏi.
Thật bất hạnh cho anh tôi chỉ mới lấy vợ được 4 tháng thì chị Yến đã ngoại tình. Anh chán nản nên nhậu nhẹt tối ngày.
Cuối cùng họ ra tòa ly dị chấm dứt cuộc tình vẻn vẹn 7 tháng.
Anh chuyển sang kinh doanh. Công việc rất trôi chảy thuận lợi, tiền bạc vô như nước nhưng trong lòng anh vẫn khắc khoải về chị…
Tự nhiên anh nói: “Không biết giờ này con đĩ đó sống ra sao?”. Tôi trả lời lấp lửng: “Muốn biết sao anh không đến tận nơi mà hỏi, hỏi em làm gì?”.
Thế là anh tới nhà chị, tần ngần đứng ngoài cửa anh nghe thấy có tiếng trẻ con khóc, anh vững dạ hơn gõ cửa. Mở cửa đón anh là người phụ nữ giống hệt chị nhưng trông có vẻ nhiều tuổi hơn. Anh chưa kịp nói gì thì người phụ nữ đó bảo: “Tuấn vào nhà đi em”.
Chị giới thiệu là chị gái của chị – chị đã chết vì sinh khó và đau tim. Hóa ra chị sinh ra đã bị bệnh tim bẩm sinh, không thể sinh con nhưng vì quá yêu anh chị đã cố có con với anh.
Không muốn làm khổ anh nên chị đã cư xử như một con đĩ để anh đừng bao giờ nghĩ đến chị nữa. Chị để số tiền 5.000 USD và 20 triệu đồng dành cho con và viết di chúc lại là “Tiền của bố cho”. Khắp nhà chị là hình của anh để sau này con biết anh chính là bố nó.
Trái đất như sụp dưới chân anh. Anh ôm con lên và khóc.
Thì ra bấy lâu nay anh coi vợ như một con đĩ và đã rước một con đĩ về làm vợ. Giờ đây anh đang đau khổ đến tột cùng, muốn nói gì đó với chị tất cả đều đã quá muộn.
|
|
|
|
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
|
|
|
|
|