Thưở nhỏ, tôi đă tin lịch sử được dạy ở trường học như Kinh Thánh, nhưng khi thời gian trôi qua, tác động của người lớn và môi trường ở chung quanh khiến cho tôi bắt đầu thấy hoài nghi, tự ḿnh t́m hiểu thực hư như thế nào.
Và sau khi t́m hiểu qua cách đọc/xem những tài liệu được cho phát hành ở ngoại quốc, tôi đă nghiệm ra rằng, lịch sử mà tôi được dạy trong trường đă biến đổi thật khác biệt, thậm chí bị bóp méo sai sự thật.
Sự thật của lịch sử đă giúp cho tôi có lời giải đáp hợp lư về thực tế và những ǵ đă xảy ra cho miền Nam VN lúc bất giờ. Cũng thông qua sự hiểu biết này, tôi đă biết rằng, có những dấu ấn lịch sử có thể làm thay đổi cả một đời người. Chiến dịch nhân đạo
"Operation Babylift" là một sự kiện đă làm thay đổi số phận của những trẻ em trong các trại mồ côi được di tản ra khỏi Sài G̣n hồi tháng Tư năm 1975.
Sự thật về lịch sử không t́m thấy ra ở trường học
Mẹ sinh ra tôi sau ngày 30 tháng Tư 1975 chỉ có một ngày. Lớn lên ở một đất nước đă từng trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, tôi có nghe người lớn kể lại rất nhiều về chiến tranh. Tôi thuộc nằm ḷng một câu
"tóm tắt" về các giai đoạn lịch sử Việt Nam của người lớn, đó là
"Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày". Sau này tôi mới biết đây là lời ca trong nhạc phẩm
"Gia tài của mẹ" do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đă sáng tác.
Ba mẹ tôi là người miền Nam chính gốc, riêng ba tôi từng làm y tá trong chế độ cũ. Trong album ảnh của ba có những bức ảnh ba tôi đứng chụp chung với các ông Tây bà Đầm trong lúc đi công tác, ví dụ như trong những đợt chích ngừa cho học sinh ở trường học. Ba vẫn thường nói với tôi:
"Hồi thời Việt Nam Cộng Ḥa sướng lắm. Một ḿnh ba đi làm nuôi cả gia đ́nh. Các anh chị đều uống sữa Guigoz." Sinh ra trong thời b́nh sau này, thế nhưng tôi chỉ được uống sữa
"tự chế" là nước cơm pha với đường, không có sướng bằng các anh chị.
Ngoài câu nói so sánh đó, ba tôi cũng có nói rằng,
"Hồi đó, đâu phải Việt Nam Cộng Ḥa thua mà do Hoa Kỳ ngừng viện trợ".
Chính câu nói ấy của ba tôi khiến cho tôi hoài nghi về lịch sử mà nhà trường đang dạy. Tôi bắt đầu thắc mắc về sự thật của lịch sử, nhưng mọi thông tin thời đó đều bị bưng bít nên tôi không thể biết ǵ thêm.
Măi cho đến đầu những năm 2000, tôi mới có thể tự đi t́m hiểu sự thật của lịch sử trên mạng internet. Tôi đă may mắn xem được một phim tài liệu lịch sử có tên
"Last days in Vietnam". Nhờ cuốn phim này mà tôi biết rằng Hiệp Định Paris được kư kết vào tháng Giêng 1973, kêu gọi ngừng bắn giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, và đánh dấu việc quân đội Hoa Kỳ rút về nước, đoàn tụ với gia đ́nh. Ngoài ra, Tổng thống Nixon c̣n hứa nếu quân đội miền Bắc vi phạm những điều đă được kư kết trong hiệp định Paris, Hoa Kỳ sẽ tiến hành đáp trả toàn lực. Hay nói cách khác, tái chiến.
Nhưng đến tháng Tám 1974, Nixon đă từ chức v́ vụ bê bối Watergate, Hoa Kỳ cho ngừng viện trợ cho Việt Nam Cộng Ḥa. Và qua một đêm mọi thứ đă thay đổi, khi Hà Nội nhận ra con đường tiến vào Sài G̣n đă rộng mở. Ngày 10 tháng Ba 1975, miền Bắc tiến hành một cuộc xâm lược quy mô lớn ḥng thâu tóm miền Nam Việt Nam. Như vậy, miền Bắc đă vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris này.
Sau khi quân đội miền Bắc chiếm được Ban Mê Thuột, Huế–Đà Nẵng, họ tiếp tục leo thang trong âm mưu tiến vào Sài G̣n để xem Hoa Kỳ sẽ phản ứng như thế nào. Lính Hoa Kỳ đă rút đi như trong điều khoản cam kết trong Hiệp định Paris, nhưng việc Hoa Kỳ ngừng viện trợ sau đó mới đúng là cú nốc ao khiến cho toàn bộ hệ thống Việt Nam Cộng Ḥa bắt đầu bị sụp đổ.
Ngày 10 tháng Tư 1975, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đề nghị Quốc hội cung cấp nhanh chóng 722 triệu Mỹ kim để viện trợ cho quân đội miền Nam Việt Nam. Trong trường hợp xấu nhất xảy ra, ít nhất hăy cho phép Hoa Kỳ cho di tản những người dân miền Nam đang gặp nguy hiểm đến nơi an toàn. Nhưng với sức ép của dân chúng, Quốc hội Hoa Kỳ đă từ chối bỏ phiếu cho bất cứ số tiền viện trợ nào giúp khẩn cấp miền Nam Việt Nam.
Trước đó vào ngày 3 tháng Tư, trong bối cảnh Đà Nẵng đă bị thất thủ và quân đội miền Bắc đang tiến vào Sài G̣n, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford tuyên bố cho bắt đầu chiến dịch di tản trẻ em trong trại mồ côi mang tên
"Operation Babylift" ra khỏi Sài G̣n với 30 chuyến bay. Phi đoàn Không vận 62 của Không Lực Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Edward J. Nash đứng ra điều hành chiến dịch này, với loại phi cơ vận tải
Lockheed C-5A Galaxy và
Lockheed C-141 Starlifter của Bộ tư lệnh Không vận Quân sự. Trong chiến dịch nhân đạo này, có khoảng 3,000 trẻ em đă được cho di tản, được các gia đ́nh ở Hoa Kỳ và ở các quốc gia đồng minh nhận nuôi, trong đó có khoảng 250 trẻ đă đến Úc.
Phi cơ Lockheed C-5A Galaxy. (Ảnh: Facebook)
Rủi thay, chuyến bay đầu tiên trong chiến dịch
Operation Babylift khi khởi hành ngày 4/4/1975 trên chiếc phi cơ vận tải hạng nặng
C–5A Galaxy, mang số đuôi
80218 (thuộc Phi đoàn cơ động hàng không thứ 6), chở 304 người, đă bị rơi cách Sài G̣n khoảng hai dặm về phía Đông (nay thuộc khu vực đường Vườn Lài, phường An Phú Đông, quận 12). Tai nạn này đă làm thiệt mạng 138 người, bao gồm trẻ em được di tản, các quân nhân, nhân viên chăm sóc, thành viên phi hành đoàn, số 176 người c̣n sống sót sau đó vẫn được di tản ra khỏi Sài G̣n bằng chiếc phi cơ khác. (Theo nguồn tin từ nhóm C-5A Galaxy BABYLIFT Crash trên Facebook).
Phi cơ C-5A Galaxy, với số đuôi 80218 bị rớt. (H́nh: chụp qua YouTube)
Kết nối kư ức 30 tháng Tư với những người bạn "Babylift"
Chính sự kiện về chiến dịch
Operation Babylift đă thôi thúc tôi t́m cách kết nối với các trẻ em mồ côi được di tản đến ngoại quốc để làm con nuôi. Tôi t́m được họ trên
Facebook. Điều đó đă giúp tôi cảm thấy ḿnh gần gũi hơn với một sự kiện lịch sử, hay giống như bước vào một sự kiện lịch sử có thật.
Trong đó có bà Dương Thị Bửu Châu (hiện đang sống tại Hoa Kỳ), ông Mike (hiện đang sống tại Hoa Kỳ), ông Jamie (hiện đang sống tại Úc), bà Hồng (sinh sống tại Việt Nam hơn 10 năm qua), và bà Chantal Doecke (hiện đang sống ở Úc). Ba nhân vật đầu tiên đă được tôi kể lại trong bài báo
"Chuyện của ba đứa trẻ Babylift 50 năm sau" trong Giai phẩm xuân Người Việt Ất Tỵ 2025 (trang 68).
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến dịch
Operation Babylift, một trong những sự kiện nhân đạo quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ông Mike đă trở lại Việt Nam từ cuối tháng Ba 2025 để gặp lại những nhân vật có liên quan đến sự kiện lịch sử này. Ông Mike đă gặp lại ông Ross Meador, một người đóng vai tṛ quan trọng trong chiến dịch di tản trẻ em trong trại mồ côi và hộ tống các bé đến phi trường. Hai ông đă cùng chụp h́nh trước cổng một cơ sở của tổ chức Friends of Children of Vietnam, nơi ông Mike sống trong khoảng thời gian 1974–1975 (nay là chung cư A-75, số 26, đường Bùi Thị Xuân, quận Nhứt).
Ông Mike đă gặp lại ông Ross Meador. (H́nh: Facebook)
Sau đó, vào ngày 4 tháng Tư 2025, ông Mike cùng những trẻ em trong chiến dịch
Operation Babylift đă tập trung tại địa điểm xảy ra tai nạn ngày 4 tháng Tư 1975 để tưởng nhớ và thương tiếc những người đă mất, đồng thời chúc mừng những người c̣n sống sót.
Tưởng nhớ các nạn nhân trong vụ rớt phi cơ C-5A Galaxy, với số đuôi 80218. (H́nh: chụp qua YouTube)
Một trong những trẻ em trong trại mồ côi được được đưa đến Úc ngày 5 tháng Tư năm 1975 là bà Chantal Doecke khi mới vài ngày tuổi. Trong nỗi khao khát t́m kiếm gia đ́nh, bà Chantal gần đây đă thực hiện xét nghiệm
DNA Ancestry và đă t́m thấy người anh/em (trai) song sinh hiện đang sống tại Brisbane, Úc, trong 50 năm. Bà hoàn toàn bị bất ngờ với kết quả này v́ trước đó chưa từng biết rằng bà có một anh/em trai song sinh.
Chantal hiện đang yêu cầu người xem chia sẻ đường liên kết phim tài liệu này (được đăng vào ngày 4 tháng Tư vừa qua) cho bạn bè và đồng nghiệp. Bà Chantal hi vọng có ai đó, ở nơi nào đó có thể kết nối bà với cha mẹ ruột của ḿnh. Chi tiết cặp song sinh gồm bà Chantal và anh/em (trai) là một điểm khác biệt nên bà hi vọng rằng có ai đó có thể nhớ đến tên của người phụ nữ đă hạ sinh một bé trai và một bé gái tại bệnh viện Từ Dũ ở Sài G̣n vào những ngày đầu tháng Tư 1975.
Ancestry là một công ty phả hệ của Hoa Kỳ có trụ sở tại Lehi, Utah. Đây là công ty phả hệ v́ lợi nhuận lớn nhất thế giới, điều hành một mạng lưới các hồ sơ phả hệ, hồ sơ lịch sử, và các trang web phả hệ di truyền.
Trong video clip, bà Chantal cho biết có những trẻ em trong chiến dịch
Operation Babylift được di tản với giấy khai sinh của trẻ em khác, v́ vậy tính xác thực của danh tính cũng rất hạn chế. Trong chuyến bay di tản đến Úc, bà được đặt trong một chiếc hộp đựng giày, lúc đó bà mới chỉ vài ngày tuổi, v́ vẫn c̣n cuống rốn chưa rụng. Đến nay, Chantal Doecke đă trở về Việt Nam 7 lần và rất tự hào là ḿnh người Việt Nam. Bà có ư định t́m lại ba mẹ ruột vào năm ngoái để biết rơ danh tính thật của ḿnh và để xem ngoại h́nh ḿnh có thể giống ai.
Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên sau 50 năm giữa bà Chantal Doecke và anh/em trai tên là Glenn Ham, diễn ra thật xúc động tại Brisbane, với nước mắt hạnh phúc của bà Chantal và nụ cười mừng rỡ của ông Glenn Ham. Họ nhận ra từng đặc điểm giống hệt nhau trên khuôn mặt và ngoại h́nh.
Bà Chantal gặp lại ông Glenn Ham. (H́nh: chụp qua YouTube)
Giống như người chị/em song sinh, ông Glenn cũng là một trong những đứa trẻ trong trại mồ côi được di tản ra khỏi Sài G̣n ở thời điểm đó. Trong cuộc gặp gỡ, bà Chantal cho anh/em trai xem những h́nh xăm trên cánh tay của bà: Đó là h́nh lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa, ḍng chữ ghi
"Operation Babylift, QF 180, Sidney 5–4–75, Nguyễn Thị Hà". rong đó
QF 180 là số chuyến bay di tản bà đến Úc, Sydney,
5–4–75 là ngày bà được đưa đến Sydney, tên Việt Nam trong giấy khai sinh kèm theo người (lúc được di tản) của bà là
Nguyễn Thị Hà.
Tuy vậy, bà Chantal nghi ngờ đây không phải là tên thật của bà v́ như đă nói ở trên, có những trẻ em được di tản với giấy khai sinh của đứa trẻ khác. Trong suốt cuộc gặp gỡ, bà không ngừng ngắm người anh/em song sinh của ḿnh với biểu cảm đầy hạnh phúc. Bà nói linh cảm cho bà biết là người mẹ ruột của bà vẫn c̣n sống và có lẽ bà và ông Glenn sẽ cùng nhau về Việt Nam để t́m mẹ ruột.
Phi cơ Lockheed C-5A Galaxy. (H́nh: chụp qua YouTube)
Không may mắn như bà Chantal Doecke và ông Glenn Ham, bà Dương Thị Bửu Châu và ông Mike cũng không ngừng t́m kiếm ba mẹ ruột của ḿnh nhưng chưa có manh mối ǵ. Một trường hợp khác, bà Hồng đă t́m về cội nguồn bằng cách chọn sống ở Sài G̣n hơn 10 năm nay. Dù họ có cuộc sống như mơ ở Hoa Kỳ, ở Úc nhưng trong ḷng họ vẫn mang nỗi tủi thân về thân phận của ḿnh và vẫn đau đáu tự hỏi ḍng tộc ḿnh ở đâu, cha mẹ ḿnh là tên ǵ.
Thật là trớ trêu khi những người được di tản ra khỏi Sài G̣n 50 năm trước mong muốn t́m về cội nguồn Việt Nam, c̣n những người Việt sống trong nước lại đang t́m mọi cách để định cư và nhập quốc tịch ở nước khác.
Cũng như bao người Việt khác sống trong nước, những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống và bức bối v́ sự ngột ngạt trong xă hội chỉ có thông tin một chiều, tôi cũng đă từng mong ước phải chi ḿnh là một trong những đứa trẻ được di tản trong chiến dịch
Operation Babylift để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, bây giờ tôi không c̣n ư nghĩ đến một quốc gia khác để sống nữa, v́ ở tuổi 50 có lẽ đă quá trễ để có thể bắt đầu sống lại.
50 năm trôi qua, tôi đă đi gần hết một đời người, nhưng vẫn chưa nh́n thấy có sự thay đổi ngoạn mục trong kinh tế–xă hội, đặc biệt là ở Việt Nam thiếu hẳn chế độ an sinh cho người tàn tật và người già nghèo khổ. Biết bao giờ người dân Sài G̣n được quay lại cái thời mà dân Singapore từng nói được sang bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước, như một bài báo của trang báo điện tử Dân Việt đă từng đề cập đến?
Nguồn:
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-l...bylift-va-toi/