NGÀY 30/4 CỦA TÔI
30/4! Người ta đã và sẽ gọi cái ngày này bằng nhiều thứ tên, tùy theo quan niệm hay vị thế chính trị của từng cá nhân: “đại thắng mùa xuân”, “ngày giải phóng”, hay “ngày quốc hận”. Những ai muốn “khách quan” thì thường dùng một cụm từ có vẻ “trung tính” hơn: “ngày thống nhất”. Nhưng, nói gì thì nói, không thể không thừa nhận rằng đây là một ngày “trọng đại”, “không thể nào quên” trong lịch sử Việt Nam, vì những lý do khác nhau.
Cách đây ba bốn năm, một nhà văn ở hải ngoại đã kêu gọi mọi người viết về chủ đề “Ngày 30/4 của tôi”. Dường như anh định tuyển chọn những bài viết ấy vào một tập sách. Đó là một điều rất có ý nghĩa. Chẳng biết có ai hưởng ứng đề xuất của anh không; tuy nhiên, cuốn sách ấy đã không được ra đời.
Chỉ còn ít ngày nữa là dân Việt lại hướng về một ngày 30/4 mới. Lần này, chắc quốc nội sẽ tổ chức kỷ niệm thật rầm rộ, như những năm 1985, 1995... chẳng hạn. Và, ở hải ngoại, lại có những cuộc biểu tình “quốc kháng” như thường lệ. Dù sao đi nữa, cái niên hiệu “30/4” mang màu sắc định mệnh sẽ lại khiến kẻ này hân hoan, người kia đau đớn, khi nhớ về quá khứ. Sự đời là vậy, biết làm sao!
Tôi thì tự bằng lòng với một vài hồi ức vụn vặt, rất tản mạn, còn đọng lại trong ký ức. Một ngày... không như mọi ngày, cách đây tròn một phần tư thế kỷ. Khi ấy, tôi còn là một đứa trẻ đang chập chững những bước đầu ở trường tiểu học...
*
Phải nhắc lại đôi lời về những ngày tháng trước đó.
Tôi không có ý niệm gì lắm về những năm sơ tán và chạy tàu bay Mỹ, ngoại trừ một vài hình ảnh nhạt nhòa: tiếng còi báo động rú ngày đêm; giọng nói trầm bổng, đầy xúc cảm của người phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam qua chiếc tờ-ran-di-tô cổ lỗ sĩ; chiếc hầm trú ẩn tối tăm, ẩm ướt ở ngay trong vườn nhà; cô bạn gái nhí nhảnh, thân thiết trên một miền thượng du Bắc Việt; những buổi tối rủ nhau đi bắt đom đóm làm đèn; những trò chơi tinh nghịch, trong đó có một trò rất bẩn thỉu là... hai đứa rủ nhau cùng đi ị ngoài cánh vườn rộng mênh mông của gia đình cô bé...
Không thể nhớ kỹ lưỡng hơn những sự kiện thời đó vì một lẽ đơn giản là tôi còn quá bé. Tuy nhiên, cái kết cục “ắt phải có”, “phù hợp biện chứng với tiến trình lịch sử” - như người ta thường nói thuở xưa - thì tôi vẫn nhớ như in.
Những năm 1974-1975, ở lớp, tôi được bầu làm “quản ca” vì có “chất giọng” “chuẩn”! Đầu mỗi giờ học, tôi lại cầm càng cho cả lớp đồng ca và cạnh những bài hát như “
đêm qua em mơ gặp Bác Hồ”, “
có sách mới áo hoa đây là nhờ ơn Đảng ta - vui tung tăng em ca: có Đảng cuộc đời nở hoa!”..., khá chung chung và có phần trừu tượng (đã có đứa nào trong số chúng tôi được “thấy” Đảng và Bác đâu; dĩ nhiên, ngoại trừ trường hợp “thấy trong tim”!), lũ chúng tôi còn đồng thanh gào “
cháu yêu chú bộ đội đánh Mỹ tài ghê” với tất cả sức lực và nhiệt huyết, khiến lòng ngực lép kẹp của đứa nào cũng căng phồng lên vì tự hào. Trong lớp, chúng tôi thi đua xem tổ nào, “cá nhân” nào “tiến vào Sài Gòn” nhanh nhất; bằng điểm số và hạnh kiểm do cô giáo cho, bọn tôi có thể diệt Mỹ, diệt “ngụy” và cắm “lá cờ thắng trận” trên chiếc bản đồ tổ quốc.
Tất nhiên, bọn tôi căm thù “giặc Mỹ” lắm. Anh Trần Đăng Khoa, thần đồng thi ca, và thần tượng của lũ nhóc như tôi thời ấy, chả bảo:
“
Thằng Mỹ nó đến nước tôi
Búp bê nó giết, bao người nó tra
Nó bắn cả cụ mù lòa
Nó thiêu cả bé chưa và được cơm...”
(“Gửi bạn Chi-lê”, 1967)
là gì! Một truyện ngắn đương thời đã ca ngợi một em bé nhất quyết không viết hoa từ “
Mỹ” trong bài chính tả, vì Mỹ ở đây là “
thằng Mỹ xâm lược”. Ngược lại, em viết hoa từ “
anh bộ đội”!
Chẳng những ghét Mỹ, bọn tôi còn bắt chước anh Khoa, coi thường Mỹ và “khảng khái”, “tĩnh tại” lắm:
“
Chúng tôi chẳng sợ Mỹ đâu...
Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu”
Trong cái khí thế hừng hực ấy, không ai ngạc nhiên là phải “diệt” được hàng tá “ngụy” thì mới đánh đổi được một tên Mỹ. May là lũ trẻ chúng tôi mới chỉ phải “diệt” trên sách vở, giấy tờ!
*
Bọn nhóc chúng tôi đã sống những ngày cuối cùng của cuộc chiến một cách hết sức náo nức và nhộn nhịp. Loa truyền thanh hồ hởi báo tin “thắng trận” từng giờ, từng phút. Nhưng không ai nghĩ cái ngày “miền Nam được đón Bác vào thăm” được chuẩn bị từ bao năm, giờ đã đến rất gần, hầu như trong tầm tay!
Rốt cục thì cái ngày định mệnh ấy cũng đến, thật nhanh, thật bất ngờ. Suốt từ sáng sớm, ai cũng cảm thấy một cái gì sẽ xảy ra; dường như có thể “ngửi” thấy nó dập dờn trên không trung. Khoảng 10 giờ sáng, đài Hà Nội phát bản thông cáo về việc ông Dương Văn Minh “đầu hàng”! Trời ơi, thật thế ư? Nhiều người không (muốn) tin vào tai mình. Nhưng đúng là như thế! Mọi người đổ hết ra phố, lắng nghe như nuốt lấy từng lời lẽ từ những chiếc loa phóng thanh ngoài đường. Chúng tôi nghe đi nghe lại mà vẫn không thấy chán! “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, một ca khúc được sản xuất kịp thời bậc nhất của âm nhạc Việt Nam, được hát vang mọi nẻo đường. Ai nấy lâng lâng, vui vẻ ra mặt. Người lạ, người quen chẳng còn phân biệt, hết thảy đều tay bắt mặt mừng. Dân tình râm ran kháo nhau là “quân ta” định “chiếm Sài Gòn” đúng vào ngày kỷ niệm Quốc tế Lao động 1/5, nhưng cuối cùng các anh “giải phóng quân” vượt mức kế hoạch một ngày. Vui thật là vui!
*
Những ngày sau đó. Dân chúng hể hả trông thấy. Đài báo truyền đi những bài xã luận đanh thép làm nức lòng người. Hết cái cảnh những bà mẹ, những người vợ phập phồng lo lắng từng giây, từng phút cho những đứa con, những người chồng khoác áo lính của mình. Không còn phải vặn nhỏ chiếc đèn dầu, ghé tai nghe (trộm) “
những người con sinh Bắc tử Nam” với tâm trạng khổ ải như xưa.
Mọi người chờ đợi những người cha, những đứa con “thắng trận” trở về. Náo nức tìm cách vào Nam tìm gặp lại người thân sau bấy nhiêu năm ròng xa cách. Rồi tiếng lành đồn xa, người ta kháo rằng miền Nam giàu lắm và có nhiều thứ vừa lạ, vừa đẹp. “
Tàn dư của chủ nghĩa đế quốc và thực dân mới mà, hay ho gì!” - mấy vị có chức sắc ở địa phương phẩy tay, nói vẻ dè bỉu. Chính họ chứ không phải ai khác, ít lâu sau đã ùa vào Nam, thi nhau “tiếp quản”, “làm chủ tập thể” nhà lầu, xe hơi!
Đám trẻ con như tôi được tận mắt chứng kiến vô số ông cơ hội, vào hôi của rồi quay về ngạo nghễ trên những chiếc xe máy - mà chúng tôi gọi một cách dân dã là “bình bịch” - cùng áo quần xúng xính đủ loại. Tôi được ai đó cho một khẩu súng trường, hoạt động bằng đá lửa, cứ bấm cò là nổ hàng chuỗi và phát sáng! Rồi, những chú búp bê tóc vàng mềm mại, biết nhắm mở mắt và biết đi, bằng pin, mới tuyệt trần làm sao!
Rõ là những ngày “vui” nhớ đời!
*
Còn xa tôi mới biết rằng, những ngày “vui” ấy là khởi đầu của một tấn thảm kịch kinh hoàng, khiến dân Việt còn ly tán cho đến ngày nay: thảm kịch “thuyền nhân”.
Nhưng, dường như đó đã là một chuyện khác rồi...
(Nhân một ngày 30-4 đầu thiên kỷ mới 2000)

Nạn nhân chiến tranh
Facebook/Hoai Linh