Có một câu hỏi vui, thế nào là “Phụ nữ”?
Một người đàn ông trả lời. Bởi vì Chúa đã lấy xương sườn đàn ông để làm thành đàn bà. Nên người đàn bà luôn phụ thuộc đàn ông. Chỉ là phụ thôi, không bao giờ là chánh. Chỉ có đàn ông mới là quan trọng.” Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”
Có phải như vậy hay không các chị? Các chị phụ nữ ở Úc, Canada, Đức, Ý, Pháp, Mỹ, Việt Nam.
Có chương trình đàm luận, người ta đặt vấn đề:
– Khi người vợ làm tiền lương nhiều hơn chồng, các ông nghĩ sao?
Có tự ái không? Có bất mãn không? Trong lòng có vui không? Thật ra các ông chả vui tí nào. Mất cái uy nghi, mất cái quyền làm chủ, mất cái thế thượng phong. Họ nhìn người vợ mình với đôi mắt dè chừng, dọ dẫm.
Còn các chị nghe câu hỏi thường là nói “ Có sao đâu. Kinh tế gia đình dồi dào hơn, tiêu xài thoải mái hơn, có tiền dành dụm nhiều hơn để vợ chồng con cái đi du lịch khi có dịp.
Có chị còn thỏ thẻ “ Nếu vậy chắc chồng em sẽ không vui. Nhưng không sao. Tùy theo thái độ của mình. Em sẽ khéo léo để ông xã không bị áp lực. Của chồng, công vợ. "
Theo truyền thống dân tộc ta, người phụ nữ luôn là phụ thuộc đàn ông dù người đàn ông đó có bất tài vô dụng đến đâu. Có phải chăng khi gia đình chồng mang sinh lễ, trầu cau đi cưới. Trong cái lễ nghi trang trọng đó, khi người mẹ chồng đeo cho con dâu đôi bông tai, sợi dây chuyền hay đôi xuyến vàng là đã nhắn nhủ: " Từ nay con đã thuộc về gia đình ta". Người con gái từ giả đời sống tự do để "Lấy chồng là đeo gông vào cổ".
Người phụ nữ dù gia đình giàu có đến đâu nhưng nếu đã gọi là con nhà gia giáo đều phải học thuộc nằm lòng câu:" Làm vợ là phải biết phục tùng chồng" là phải "Nâng khăn sửa túi cho chồng".
Cái thế hệ cha ông chúng ta, đa phần các ông có dăm ba bà vợ. Phụ nữ như những cây chùm gởi sống bám vào một người đàn ông. Dù đôi khi người đàn ông đó nhiều tật xấu: Rượu chè, gia trưởng hay vũ phu. Vì hạnh phúc gia đình, người phụ nữ phải nai lưng làm quần quật để sinh nhai, để phục vụ chồng, đẻ con và nuôi con.
Phụ nữ Việt Nam chúng ta phải cám ơn bà Ngô Đình Nhu đã mạnh tay ra đạo luật hôn nhân "Một Vợ Một Chồng ". Từ đó đến nay số lượng đàn ông đa thê đã giảm lần và dứt hẳn. Đạo luật đó đã giúp các bà vợ lớn không còn khóc thầm, đau khổ. Giúp các vợ lẻ khỏi xấu hổ một kiếp chồng chung.
Mẹ tôi là một trong số những người phụ nữ đó. Mẹ một đời hy sinh cho chồng, con và gia đình. Ba tôi yêu thương mẹ tôi sâu nặng như thế nào tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc chắn ông cũng có 2, 3 người phụ nữ khác ông yêu thương hết mực. Người đàn ông trong ông trải đều cho những người đàn bà bên cạnh. Cho những đứa con ông sinh ra và có trách nhiệm với họ. Cái quan niệm chồng chúa vợ tôi đã khiến mẹ tôi nép mình vào đó chịu đựng để yêu thương chồng và con cái của chồng.
Mẹ tôi không được cái diễm phúc ăn sung mặc sướng làm vợ cả, mà oằn lưng ra với bao nhiêu trách nhiệm. Gánh vác một gia đình đông người, nuôi dưỡng mẹ chồng cho tới lúc mòn hơi kiệt sức. Mẹ tôi yêu thương và chìu chuộng ba tôi rất mực. Mẹ là cái bóng đi bên cha tôi mà không một lời phiền trách. Mẹ như cây cau ốm yếu nổi bật trên nền trời, mang trên mình một đàn con chi chít những quả. Mẹ là người đàn bà đúng nghĩa phụ thuộc chồng. Mẹ tôi làm dâu đến năm bà 70 tuổi bà nội tôi mới mất ở tuổi 95. Tôi đã từng rơi nước mắt khi thấy mẹ ngần ấy tuổi, có cháu nội, cháu ngoại, ăn trầu ngoáy vẫn tận tụy săn sóc mẹ chồng và phục vụ cho ba tôi.
Ba tôi ư! Ông coi việc chăm lo gia đình, nội trợ, việc nhà là của mẹ tôi. Ông ăn trên, ngồi trước và mọi quyết định quan trọng trong nhà là của ông. Khi tôi còn bé, cả 5 anh em tôi chưa bao giờ được mẹ cho ngồi chung bàn ăn cơm với cha. Ba tôi ăn riêng một mâm cơm tươm tất. Chúng tôi và mẹ ăn trước hoặc sau với một mâm cơm riêng biệt. Đôi khi bằng những thức ăn cha tôi đã ăn thừa.
Chúng tôi cũng không thấy đó là điều lạ vì nó đã được an định như vậy từ khi chúng tôi biết cầm muỗng để múc. Mẹ tôi thì coi việc cung phụng chồng là nhiệm vụ người vợ. Không oán than hay đặt vấn đề.
Những người vợ lẽ của ba tôi cũng vậy. Họ chiều chuộng ba tôi còn hơn cả mẹ tôi. Họ còn trẻ, tràn đầy tuổi xuân. Họ nói cười ve vuốt, nũng nịu với ba tôi mỗi khi ông đến. Những chiếc gối, cái mền thơm phưng phức mỗi khi ba tôi ở lại nhà dì đã khiến tôi bực tức, giận ba và ghét cay ghét đắng dì ghẻ. Sau này lớn lên, hiểu biết và nhìn vào thực tế tôi đã thấy mình sai. Tôi thấy thương hại dì và thông cảm khi dì đã chân tình thú nhận:" Ba con không có dụ dỗ dì đâu. Không hiểu sao gặp ba con dì đã thương và theo ổng". Dì cũng vất vả bươn chải nuôi các em tôi, bởi vì đồng lương của ba tôi không thể đảm bảo cuộc sống cho một đại gia đình hai ba dòng con.
Tôi không ghét ba tôi vì thật ra ông không có lỗi. Quan niệm trọng nam khinh nữ, năm thê bảy thiếp đã đi sâu vào máu huyết và văn hóa VN. Ông từng dạy các anh tôi “ Đàn ông phải làm việc đại sự, chuyện lặt vặt trong nhà là của đàn bà, không được nhúng tay vào. “
Kết cuộc ngoài việc đi làm các anh tôi không dám giúp mẹ, giúp vợ bất cứ cái gì gọi là việc vặt của đàn bà. Mà việc của đàn bà là việc vô hình làm hoài không hết. Ăn xong lại đói, dọn dẹp xong thì lại dơ, nước vừa đầy xong, thì xài lại hết... Tôi chỉ thấy bất mãn cho một xã hội bất công. Một nền luân lý coi nhẹ người phụ nữ. Nhưng oái oăm thay, cái luân lý ấy đã đi sâu vào đời sống mọi người trong đó có mẹ tôi và mẹ chồng tôi.
Tôi lập gia dình năm tôi 23 tuổi. Cái tuổi chính chắn của một người con gái thời đó. Tôi bước vào một gia đình người Trung nặng về phong kiến. Mẹ chồng tôi góa bụa khi còn rất trẻ. Bà ở vậy thờ chồng, nuôi con và phụng dưỡng cha mẹ chồng. Cái mục tiêu đời sống của bà là thờ phụng gia nương bên chồng. Sinh con cháu nối dõi tông đường, khói hương thừa tự. Chồng tôi là con trai một của dòng dõi hiếm hoi, nên mặc nhiên anh ấy là trái tim của mẹ, là trung tâm của gia phả nhà anh. Và tôi là con dâu duy nhất phải thực hiện cho bằng được những mong ước, hoài bảo của mẹ chồng tôi.